Powered By Blogger

Translate

Search Here ...

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2019

Microsoft Office 2010 dùng Microsoft Toolkit 2.6 bẻ khóa cũng chẳng ăn thua. May mà mình còn lưu soft độc chiêu này với vài click là thành công các bạn nha!



 Lâu quá mình không cài office 2010 nên mất gần 1 giờ tính luôn crack rồi xóa các kiểu ạ! Mình dùng Microsoft Toolkit 2.6 bẻ khóa cũng chẳng ăn thua. May mà mình còn lưu soft độc chiêu này với vài click là thành công các bạn nha!

 https://app.box.com/s/auunbz3eqg3ns95pwbya131nryxgxoxg

 Với công ty, doanh nghiệp các bạn dùng các bộ office sau sẽ tiết kiệm rất nhiều chi phí ạ! Tập đoàn MWG vẫn đang dùng bộ LibreOffice các bạn nhé!

 https://www.libreoffice.org

LibreOffice
Microsoft Office Online
WPS Office Free

Polaris Office
Google Docs
FreeOffice
Zoho Workplace

Bộ tool này hình như do người Hàn Quốc họ làm các bạn nha! :)

Đảm Bảo Bạn Hiểu Hết Điều Này Bạn Sẽ Là Siêu Nhân :D

Việt Nam Bác Học thì nhiều Triết gia lý luận cũng siêu hơn người Nhìn ra thế giới bạn ơi! Xem ta giúp ít được đời nhiều chưa. Vì sao con trung thành, vâng lời Sư Phụ tuyệt đối? Có những người rời bỏ SP sau những năm tháng được SP cưu mang, dạy dỗ, trao truyền lý tưởng giác ngộ giải thoát, đã quay lại chỉ trích việc chùa Phật Quang đề cao lòng trung thành tuyệt đối với SP. Một người trung thành, vâng lời tuyệt đối với Sư Phụ nghĩa là người đó tin rằng, chấp nhận rằng, hiểu được rằng, mọi quan điểm, thái độ, tình cảm, việc làm, tầm nhìn của Sư Phụ đều là đúng nhất, và đúng hơn quan điểm, thái độ, tình cảm, việc làm, tầm nhìn của bản thân mình. Người nào chưa có lòng trung thành, vâng lời tuyệt đối với Sư Phụ, nghĩa là trong thâm tâm họ, vẫn có một lòng tin rằng, ở một khía cạnh, phương diện nào đó, quan điểm, thái độ, tình cảm, việc làm, tầm nhìn của họ đúng hơn SP... Theo sự nhìn nhận của cá nhân con, thì SP đã có những đóng góp sau đây đối với loài người ạ. Thứ nhất. SP minh định lại đâu là Chánh Pháp đúng với ý Phật nhất. Bắt đầu với lập trường Vô ngã, cái tôi này không thật - điều này không một ai phản bác được. Sau đó là niềm tin hiểu sâu sắc, ứng dụng luật nhân quả trong mọi điều của cuộc sống. Dựa trên nền tảng tin hiểu nhân quả để dựng lên lập trường về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp cho người đệ tử Phật. Tông phái, pháp môn gì tính sau, vô ngã, đạo đức trước cái đã. Mà cái lõi của đạo đức là tinh thần vị tha, vì người làm gốc. Chính vì tinh thần vị tha này mà SP đề cao lòng tận tuỵ, dấn thân, nhập thế của người đệ tử Phật bên cạnh sự thúc liễm công phu nơi cô tịch. Vị tha thì phải cực nhọc, phải vất vả, phải hi sinh, phải gánh vác trách nhiệm. Chứ tu hành mà an nhàn, nhàn nhã, tàn tàn thì ác quá, ích kỷ quá. Khối lượng công việc trên đời là bảo toàn, cố định, mình nhàn hạ tức là có người phải cực khổ hơn. "Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành cho ai?". SP xác định lại lập trường Tứ niệm xứ (đầy đủ 4 phép quán) của Thiền Phật giáo, xác định lại sự quan trọng của công phu điều thân, xác định lại cách dụng công hơi thở... đúng với ý Phật trong kinh điển Nikaya nhất. SP tạo nên sự hoà hợp chưa từng có giữa các tông phái, hệ phái. SP Việt hoá, thời đại hoá kinh tụng và các nghi thức của Phật giáo khiến người già hay người trẻ đều bị cuốn hút, dâng trào niềm xúc cảm mà đến chùa nhiều hơn, đạo tâm tăng trưởng vượt bậc hơn. SP dựng lại mạnh mẽ lòng tôn kính Phật, xác quyết mạnh mẽ đạo nghĩa Thầy Trò... và con biết hai điều thiêng liêng đó là giềng mối cho mạng mạch, sự trường tồn cũng như hưng thịnh của Phật Pháp. Thứ hai. Đức Phật tuyên bố vũ trụ, luân hồi không có bắt đầu, không có kết thúc. Vậy mà khoa thiên văn học mấy trăm năm qua tin chắc nịch thuyết Big Bang "vũ trụ bắt đầu từ một vụ nổ". Chỉ một mình SP dám hoài nghi, xét lại và phủ nhận với đầy đủ luận cứ chặt chẽ. Thậm chí, SP còn đưa ra một nhận định mới mẻ về sự hình thành vũ trụ, hết sức phù hợp với những phát hiện mới của khoa thiên văn học. SP gợi ý cho khoa học cách phá sóng hấp dẫn, cách tạo-ra-chuyển-động-mà-không-có-gì-nhúc-nhích, chuyển động phi phản lực, trong khi khoa học vẫn chưa biết bản chất lực hấp dẫn là gì... Hàng trăm năm qua, cách tạo ra chuyển động bằng phản lực là nền tảng của ngành công nghiệp khai thác, chế biến dầu mỏ, dầu khí khổng lồ làm bạc màu dần Trái Đất, làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nên con hiểu, phát kiến này của SP đã gợi ý cho các nhà khoa học đi con đường khác, khép lại triều đại phản lực tồn tại cả trăm năm qua, chuẩn bị cho một cuộc cách mạng long trời lở đất về chuyển động học, năng lượng học, vật lý học... Vừa là khẳng định tôn vinh trí tuệ vĩ đại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. SP dư tiêu chuẩn để nhận một giải Nobel về vật lý. Thứ ba. Đức Phật tuyên bố trong giới luật, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni không được đổ nước sôi lên đất vì như vậy làm chết vi trùng. Đức Phật cũng tuyên bố bệnh tật là do nghiệp của mỗi chúng sinh. Một giới điều làm kinh ngạc các nhà sinh vật học, khoa học. Vì họ quan niệm rằng vi trùng là nguyên nhân gây bệnh, truyền bệnh. Rõ ràng có độ vênh giữa ý Phật và ý các nhà khoa học. Và SP là người mở đường chắp nối hai ý đó lại với nhau. Bằng bài giảng Vi khuẩn hung hãn, SP đã chứng minh: đúng là có những vi khuẩn độc hại sinh bệnh, nhưng chính con người tạo ra môi trường độc hại để các vi khuẩn độc hại xuất hiện. Nghĩa là trách nhiệm lại thuộc về chính con người, đừng đổ thừa cho vi khuẩn. Nhất là khi tuyệt đại đa số vi khuẩn trên hành tinh này là có lợi. Không có vi khuẩn thì không có sự sống. Quyển sách Bacteria, Inc của Cash Asher đưa ra những bằng chứng, bài báo khoa học sống động cho luận điểm, lập luận mở đường đó của SP. SP dư tiêu chuẩn để nhận một giải Nobel về sinh lý và y học Thứ tư. Căn bệnh tiểu đường làm điên đầu cả thế giới, bằng phương pháp CORA đơn giản, nhẹ nhàng, rẻ tiền, SP delete nó nhanh gọn. SP dư tiêu chuẩn để nhận thêm một giải Nobel về sinh lý và y học. À không phải ạ, nhận thêm hai giải chứ ạ. Còn loạt bài thần thái mở đường cho y học về phương pháp chữa bệnh ung thư nữa ạ, với bằng chứng sống động hết sức thuyết phục là những người đệ tử SP hoặc người đã nghe lời SP, làm theo và khỏi bệnh. Thứ năm. SP minh định lại định nghĩa thế nào là Âm, thế nào là Dương, thế nào là nguyên lý Âm Dương. Sau bao nhiêu nghìn năm mạnh ai nấy định nghĩa, lung tung hết cả lên. Mà nguyên lý âm dương chính là nền tảng cho cả một nền văn minh Á Đông đồ sộ. Từ nguyên lý âm dương này có thể đào sâu để hấp thụ cả một kho tàng các học thuật từ trí tuệ siêu việt của tổ tiên, cha ông ngày trước. Tuy nhiên, SP tránh đào sâu vào những khoa thuật huyền bí dễ khiến cho con người bị mê tín quên mất nhân quả tội phúc. Từ nguyên lý Âm Dương, SP dựng lên cả một hệ thống khí công Phật gia, để làm nền tảng tu thiền, tiết dục cho người đệ tử Phật. Từ nguyên lý Âm Dương, SP mở ra cả một võ phái với những bài quyền rung động lòng người yêu võ, với tinh thần khiêm hạ tột cùng làm mọi võ phái khác đều mến mộ... Thứ sáu. Chủ nghĩa tự do phương Tây làm băng hoại đạo đức loài người. Từ cái quan điểm đề cao tự do mù quáng, quá đáng này mà đẻ ra những quan niệm sai lầm cực kì tai hại như tự do yêu (yêu sớm, yêu nhiều...), tự do tình dục (tình dục trước hôn nhân, tình dục sớm, tình dục nhiều), làm cho con người trở nên sa đoạ, truỵ lạc. SP là người chống lại chủ nghĩa tự do một cách hợp tình, hợp lý nhất, chặt chẽ nhất mà không ai có thể phản bác. SP dựng lại tinh thần kỷ cương, vô ngã, xem nhẹ cái tôi, cái ý của mình để nép vào kỷ luật chung của cộng đồng, xã hội. Hệ thống đạo tràng và CTN của chùa Phật Quang vừa tràn đầy niềm vui, tình yêu thương chan hoà, nghĩa tình giữa các huynh đệ nhưng cũng nề nếp, có thứ bậc, có tổ chức... nên ngày một phát triển và lớn mạnh. Thứ bảy. Giữa một thế giới xem nhẹ tình yêu nước, SP dựng lại giá trị của tình yêu nước, tinh thần dân tộc một cách mạnh mẽ, nhưng SP cũng khéo léo đề cao thêm tình yêu thương cả nhân loại rộng lớn để hài hoà, cân đối. Vì không yêu nước cũng sai, mà yêu nước cực đoan dẫn đến hẹp hòi, bảo thủ, tự tôn cũng sai... Tình yêu nước là tình cảm đẹp, là trung gian, là bước đệm để tình yêu nhỏ hẹp trong gia đình có thể thăng hoa thành lòng từ bi rộng khắp. Thứ tám. Vì SP là người đã sinh ra con một lần nữa. Quá khứ của con đầy ắp sự kiêu mạn, ích kỷ, ngang tàng, nhiễm ô, cùng những lầm lỗi bần tiện mà ngoài SP ra, con không dám tâm sự với ai, kể cả ba mẹ con. SP biết tất cả những tội đó của con, SP nghiêm khắc với con, SP nói: "Con sẽ đoạ súc sinh sau khi chết"... Nhờ câu nói đó của Người mà con có nỗi sợ hãi đủ lớn để dạt ra khỏi những lầm lỗi, lắng dần tâm kiêu mạn ngút trời, sám hối tu tập trở lại, đi lên từ bùn đen. Khi con chưa thấy lỗi, con cảm nhận được trong ánh mắt của SP sự nghiêm khắc cứng rắn, khi con đã thấy sai và sám hối, khi SP nhìn con con lại cảm nhận được sự trông chờ, hi vọng... Con hiểu được một điều là: SP yêu thương tất cả, bao dung cho tất cả, nhưng người đệ tử không được phép lặp lại lỗi lầm... Con vâng lời, trung thành tuyệt đối với SP vì trí tuệ Người như biển cả bao la và tình thương, đức độ của Người như ánh trăng trầm hùng dịu dàng soi tỏ. Con tuyệt đối tin tưởng rằng mọi quan điểm, thái độ, tình cảm, việc làm, tầm nhìn của SP đều là đúng nhất, đúng hơn con. Đi theo SP. Con không cần, chẳng muốn được bất cứ lợi ích gì. Cũng không cần, chẳng sợ phải mất đi điều gì. Đi theo SP. Con yên tâm về mình. Yên tâm rằng đây là con đường, đây là chân lý, đây là lẽ phải, đây là Chánh Pháp đúng với ý Phật nhất. Từ lâu con đã xới tung cả đại tạng kinh Nikaya do Sư Ông, Hoà Thượng Thích Minh Châu chuyển ngữ, và không tìm được một mảy may lời dạy nào của SP khác với lời Phật dạy, mâu thuẫn với lời Phật dạy. Con không tìm ra một lý do gì để từ bỏ, để phản bội, để quay lưng với một bậc đạo sư, một Người Thầy, Người Cha, một Sư Phụ đáng yêu kính như thế... Đáng thương cho những người tin lời kẻ đã ra đi và quay lại công kích, phản bội SP. Để rồi vì vậy mà rời bỏ SP, nghĩ xấu cho SP, nói xấu về SP cho nhiều người khác nữa. Sao họ không biết so sánh những kẻ đó với SP nhỉ? Những kẻ đó ngay cả đạo nghĩa Thầy trò còn làm không xong, lấy tư cách gì làm Thầy thiên hạ, làm Tăng bảo? Sao mà khờ thế, dại dột thế, lý trí họ đâu rồi? Kiếp sau những kẻ đó chắc chắn đoạ địa ngục vì phỉ báng Tăng Bảo. Hết kiếp địa ngục sẽ làm chó để học lại bài học trung thành, do đã vô ơn, phản bội, xúc phạm, nhục mạ Thầy tổ. Ai đi theo những kẻ đó rồi nghĩ sai, nói sai về SP thì những kẻ này đoạ ở cõi nào, họ sẽ đoạ theo đúng cõi đó. https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=168369620467386&id=100018830462807 https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=197823917768558&id=255090418336957 * Đã Có Sách Nhìn Về Vũ Trụ nói khá rõ về sự hình thành của Vũ Trụ rồi Bạn nhé! Vũ Trụ không bắt đầu từ vụ nổ Big Bang ... Xin mời bạn đón xem ạ! Sách bán tại Số 28 đường Hoàng Diệu Quận Phú Nhuận bạn nha! PHIM JASON BOURNE 5 tập phim về siêu điệp viên mất trí nhớ Jason Bourne cho ta nhiều nghĩ suy. Kịch bản và kiến thức tình báo chứa đựng trong phim phải được xem là chưa từng có tiền lệ. Mỗi một giây của phim đều là cả một khối trí tuệ. Jason Bourne được đào tạo để trở thành một siêu điệp viên chuyên giết người theo lệnh mà không cần biết lý do. Nhưng thẳm sâu Bourne là người rất có lương tâm. Một lần nhận lệnh lên tàu giết một chính khách Phi châu, Bourne bỏ nhiệm vụ vì nhìn thấy nạn nhân đang đùa vui với con nhỏ. Chút do dự đó phải trả giá bằng việc bị bắn rơi xuống biển. Bourne được ngư dân cứu sống nhưng quên hết mọi việc. Kể từ đó Bourne không nhận lệnh phải giết ai nữa nên lương tâm sống dậy. Bourne quay lại tìm kiếm tung tích của mình, và bị truy sát cùng trời cuối đất bởi chính những người đã từng đào tạo và chỉ huy mình. Lúc này bộ phim bộc lộ một mảng tối trong hoạt động tình báo Mỹ, những kẻ chỉ huy đụng chút là ra lệnh giết bỏ, kể cả nhân viên của mình. Chỉ cần nghi ngờ vớ vẩn là giết. Giết công dân nước ngoài và cả công dân nước mình. Rồi bí mật hợp tác với tổ chức tình báo nước khác để kiếm tư lợi. Rồi giết hại lẫn nhau để bịt miệng những ai sắp phát hiện ra bí mật của mình. Cái lối giải quyết công việc bằng cách giết chóc đó đã đẩy tổ chức tình báo Mỹ càng lúc càng lâm vào rối ren lúng túng. Nhưng những kẻ giết người bừa bãi đó lại luôn tự cho mình là yêu nước. Yêu nước bằng thủ đoạn đê hèn và giết chóc bừa bãi. Yêu nước nhưng đã làm cho quốc gia mất chính nghĩa. Những thông điệp mà bộ phim gửi gắm cho thế giới thật là sâu sắc. Cuối cùng, lòng nhân ái mới là lẽ sống của chúng ta. Lớp kịch bản nên nghiên cứu bộ phim 5 tập này. Quá nhiều bài học hay. st. P/S: Link phim từ phần 1 - 5: (xem online cho tiện, nếu muốn xem bản rõ hơn cần vào các trang Torrent tải về bản HD để xem ạ) Phần 1 - Danh Tính Của Bourne: http://www.phimmoi.net/phim/bourne-1-the-bourne-identity-4088/ Phần 2 - Quyền Lực Của Bourne: http://www.phimmoi.net/phim/sieu-diep-vien-2-quyen-luc-cua-bourne-4089/ Phần 3 - Tối Hậu Thư Của Bourne: http://www.phimmoi.net/phim/sieu-diep-vien-3-toi-hau-thu-cua-bourne-4090/ Phần 4 - Người Kế Thừa Bourne: http://www.phimmoi.net/phim/sieu-diep-vien-4-nguoi-ke-thua-bourne-4091/ Phần 5 - Jason Bourne: http://www.phimmoi.net/phim/sieu-diep-vien-tai-xuat-i2-3707/ https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=279301639672128&id=100027768818474 BIẾT ÍT THÌ VÔ THẦN, CÒN BIẾT NHIỀU THÌ TIN VÀO NHÂN QUẢ Nên kiểm tra lại: Có một lần tôi đi giảng về, đi xe đò rồi bắt xe ôm từ bến xe về, tôi trông ông lái xe ôm chở tôi có vẻ trí thức. Đi trên đường nói chuyện thì ông nói rằng trước kia ông đã từng làm thày giáo dạy Triết học, nhưng giờ không dạy nữa mà chạy xe ôm. Sau một hồi ông hỏi tôi rằng: “Thưa Thày, có phải KHI NGƯỜI TA BIẾT NHIỀU RỒI THÌ NGƯỜI TA SẼ TRỞ NÊN VÔ THẦN, KHÔNG CÒN TIN Ở TÔN GIÁO NỮA, có phải không?” Thì tôi hiểu ông này thuộc loại người có học, có nghiên cứu khoa học rồi mất niềm tin vào tôn giáo, vì cho rằng những lý thuyết về tôn giáo là vô lý. Tôi mới trả lời ông thế này: “Khi mà mình BIẾT HƠI NHIỀU thì mình sẽ trở thành VÔ THẦN, và khi mình BIẾT NHIỀU HƠN NỮA, thì mình HẾT VÔ THẦN”. Ông đó nói: - Ủa ! Như vậy là tôi mới chỉ BIẾT HƠI NHIỀU?. - Anh nói đúng, anh mới chỉ BIẾT HƠI NHIỀU thôi nên mới trở thành VÔ THẦN. - Sao vậy? - Vì khi mình biết HƠI NHIỀU nghĩa là gì? Nghĩa là mình có học về kiến thức khoa học, mình giải thích được thế nào mưa, là mây?, là sấm, là sét, vũ trụ bắt nguồn từ đâu, con người từ đâu? v.v…, nghĩa là có một số kiến thức giải thích được một số điều trong cuộc đời này, và mình cảm thấy không cần sự giải thích của tôn giáo nữa. Và những điều mà tôn giáo nói đến có vẻ như là lừa gạt, tại người xưa họ không giải thích được rồi đặt tầm bậy ra. Nên mình đang trở thành VÔ THẦN. Như vậy khi mình BIẾT HƠI NHIỀU thì trở thành VÔ THẦN. Nhưng KHI MÌNH BIẾT NHIỀU HƠN NỮA THÌ BẮT ĐẦU MÌNH HẾT VÔ THẦN là ở chỗ này: Nếu anh sống rất nhiều, anh quan sát cuộc đời này rất kỹ, anh sẽ cảm thấy rằng MỌI VIỆC TRÊN ĐỜI KHÔNG PHẢI DO VÔ TÌNH NGẪU NHIÊN XẢY RA MÀ DƯỜNG NHƯ NÓ THEO MÔ HÌNH NHÂN QUẢ NÀO ĐÓ CHI PHỐI, chứ không phải nó xảy ra tự nhiên, ngẫu nhiên. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai là NĂNG LỰC TÂM LINH mà trên thế giới đang nghiên cứu: có những nhà ngoại cảm có thể biết được những điều từ xa, biết được chuyện quá khứ, chuyện vị lại sắp xảy ra, họ có thể ngồi thiền rồi cất thân mình lên giữa hư không, v.v…, mà bây giờ người ta gọi là NĂNG LỰC TÂM LINH, NĂNG LỰC NGOẠI CẢM, thế giới đang nghiên cứu. Nếu anh biết được tới điều đó nữa thì anh sẽ biết được rằng THẾ GIỚI NÀY KHÔNG CHỈ LÀ VẬT CHẤT mà còn là TÂM LINH nữa, mà SỰ VẬN HÀNH CỦA CUỘC ĐỜI NÀY NÓ BỊ QUY LUẬT NHÂN QUẢ ÂM THẦM CHI PHỐI. Nếu anh nhìn cuộc đời rất sâu, anh BIẾT NHIỀU HƠN NỮA THÌ HẾT VÔ THẦN. Tôi nói vậy xong ông ấy chịu và làm thinh. (Sư phụ THÍCH CHÂN QUANG) #Táisinh: Chứng minh 2 * Khi những dữ liệu hay chứng cứ đã đủ thì người ta có quyền kết luận. Ví dụ có một hình tứ giác, dữ liệu chứng cứ là hình đó có hai đường chéo cắt nhau tại Trung điểm của mỗi đường chéo. Với dữ liệu đó thì ta đủ để kết luận tứ giác đó là hình bình hành. Chưa đủ để kết luận tứ giác đó là hình thoi. * Nếu có thêm một dữ liệu nữa là hai đường chéo đó thẳng góc với nhau, thì ta xác quyết tứ giác đó là hình thoi. Đến mức độ này mà do dự không dám kết luận đó là hình thoi thì chỉ có một nhận xét xứng đáng, thằng này dở toán hình học. Ta buộc phải kết luận khi không còn chọn lựa kết quả nào khác. =>Cũng vậy, một người bị mất tiền, còn một người khác bỗng có tiền mua sắm. Sau khi loại trừ hết mọi giả thuyết nguồn tiền nào khác, thì ta buộc phải kết luận anh này ăn cắp của anh kia, dù không ai bắt gặp cả. Cứ việc dí hỏi riết thì anh này phải nhận tội. Đến mức độ đó mà không dám kết luận thì chỉ có một nhận xét, cái thằng điều tra quá dở. =>Cũng vậy, mọi câu chuyện về tái sinh khắp thế giới với đầy đủ chứng cứ không thể bác bỏ, mà ta không dám kết luận sự tái sinh là hiện tượng tự nhiên có thật, thì chỉ có một nhận xét xứng đáng, thằng này không đủ số lượng tế bào não của loài người để có tinh thần khoa học. Nói nghe chướng tai, nhưng thật sự không còn chọn lựa nào khác. Băn khoăn mãi chuyện tái sinh Thì con người ấy vô minh rõ ràng ST Bạn công giáo đáp: Thế nhưng bên Công giáo đưa ra rất nhiều luận chứng và luận cứ cũng rất thuyết phục để cho rằng những câu chuyện tái sinh là không thật đó huynh. Và tín đồ Công giáo nhìn những câu chuyện đó dưới góc nhìn rất khác người Phật tử nên chẳng trách được tại sao họ không tin. Mình học Phật pháp thì nên tìm hiểu góc nhìn của người khác và thông cảm với họ. Huynh Thiện Thanh Phước Đáp: Dạ. Mỗi người, mỗi Đạo có những lập luận khác nhau. Nhưng những điều lập luận của Đạo Phật Đ thấy rất hợp với khoa học phải không ạ? Cả như nhà khoa học lừng danh Albert Einstein viết về Phật giáo cũng nhận định rằng: "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ (cosmic religion)... Bao gồm cả thiên nhiên vật lý và tinh thần... Phật giáo bao gồm các thứ đó... Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được yêu cầu của nền khoa học tân tiến, tôn giáo đó chính là Phật giáo”. (The religion of the future will be cosmic religion... cover both the natural and spiritual... Buddhism answers this description... if there is any religion that would cope with the modern scientific needs, it would be Buddhism) ---o0o--- Tỷ Đức Đoan đáp : Thuở ban đầu chúa Jesus cũng dạy về tái sinh. "này, ta nói cho các ngươi biết, quả thật các ngươi phải tái sinh. Gió từ đâu đến rồi đi về đâu, các ngươi không thể biết. Còn ta, ta nói những điều thuộc về đất (cụ thể) các ngươi còn chẳng hiểu được, huống hồ ta nói những điều thuộc về trời (trừu tượng) thì các người đẹp làm sao hiểu được. Quả thật, các ngươi phải tái sinh ".(Phúc âm) Trong kinh Phúc Âm Chúa Giêsu có câu: "này Phêrô Simon hãy bỏ gươm xuống, kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm". Chúa là người hiểu rất rõ nhân quả phải không ạ! CƠ CHẾ KHÍ LỰC CỦA THIỀN 1. Ý nghĩa của Âm Dương Quy luật Âm Dương được khám phá tại Trung Hoa và Việt Nam khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Từ nguyên lý Âm Dương này, người xưa đã phát triển thành Ngũ Hành, Bát Quái để làm chỗ dựa cho việc quan sát con người và vũ trụ. Điều đặc biệt là hệ thống triết học này được ứng dụng cho rất nhiều lãnh vực như Y học, Dự đoán, Võ học, Phong thủy, Nhân tướng học, Tử vi… và cả Chiến trận. Sự tồn tại suốt mấy ngàn năm của hệ thống triết học này cũng cho chúng ta một nhận xét là người xưa cũng đã đạt được những kết quả nhất định nào đó khi dựa vào đó. Trước hết, Âm có nghĩa là phần khuất kín. Dương có nghĩa là phần phô bày. Ví dụ như nơi một cái cây, phần gốc rễ chìm khuất phía dưới là âm, và phần mọc lộ ra trên đất là dương. Nơi một căn nhà, phần móng chìm sâu trong đất là âm, và phần tường vách mái hiện ra cho ta sử dụng trực tiếp là dương. Ở một computer, phần vi mạch bên trong cái case là âm, và màn hình monitor cho chúng ta quan sát bên ngoài là dương. Nơi con người, phần trước mặt mọi người nhìn thấy nhau là dương, và phần lưng là âm; phần trên từ rốn trở lên là dương, và phần từ rốn xuống đến chân là âm; phần da vẻ bên ngoài là dương, và phần nội tạng là âm; phần hành vi lời nói bên ngoài là dương, và tâm lý bên trong là âm… Phần Dương là phần chúng ta trực tiếp sử dụng, tiếp xúc, và phần Âm là phần chúng ta ít để ý nhưng lại là gốc, là cơ sở, là nơi xuất phát của Dương. Âm càng to càng vững chừng nào thì Dương sẽ có điều kiện phát triển chừng nấy. Bộ rễ to lớn là điều kiện cho cây trở thành đại thụ. Móng nhà sâu lớn là điều kiện cho nhà vươn cao. Một tâm lý độ lượng là điều kiện cho hành vi ngôn ngữ tốt đẹp… Nếu phần Dương lớn hơn phần Âm thì toàn bộ cơ cấu đó bắt đầu có nguy cơ suy thoái sớm, không tồn tại lâu. Nếu bộ rễ của cây nhỏ hơn phần thân nhánh phía trên thì cây đó có tuổi thọ ngắn. Nếu móng không bắt chân rất sâu thì ngôi nhà sẽ mau lún. Nếu Đạo đức của một người ít thì Tài năng không phát triển lớn lao. Vì vậy, hiểu được tính chất này, chúng ta phải luôn luôn củng cố phần gốc, nghĩa là phần Âm, của cuộc sống, của sức khỏe, của công phu tu hành, của công việc… 2. Cơ chế khí lực của Thiền Theo hệ thống Tam nghiệp thân khẩu ý thì tâm ý thuộc về phần Âm, không nhìn thấy được. Nhưng theo hệ thống khí lực của cơ thể thì hoạt động của tâm ý ở trên đầu lại là phần cực Dương. Đối nghịch với Đầu là hai lòng bàn chân, phần cực Âm. Vì Đầu là phần cực Dương nên nếu ta sử dụng đầu óc nhiều quá, hoặc tu thiền mà để ý trên đầu nhiều quá thì trong cơ thể ta, phần Dương đang dần dần lấn phần Âm, và nguy cơ suy thoái bệnh tật đổ vỡ cũng đang tiến đến từ từ. Nếu người nào có được hai chân khỏe thì chắc chắn người đó cũng có tinh thần mạnh. Nếu người nào hai chân bị yếu thì toàn bộ cơ thể cũng yếu và tinh thần cũng yếu. Trong tướng số, ai có hai chân yếu sẽ khó làm nên sự nghiệp lâu bền. Vì vậy, trong việc bảo vệ sức khỏe và tinh thần, việc tập luyện hai chân là vô cùng quan trọng. Thường thì khi tu thiền, người ta hay bị để ý trên đầu nhiều, nghĩa là thiên về Dương, nên Phật dạy chúng ta phải đi kinh hành hoạt động hai chân để bù lại phần Âm dễ bị bỏ quên. Hệ thống bụng dưới ở huyệt Đan điền cho đến bộ phận sinh dục với huyệt Hội âm, Dương cường, cũng là phần Âm cực kỳ quan trọng cho tinh thần và sức khỏe. Nếu nguyên hệ thống đó khỏe mạnh vững chắc thì con người sẽ ổn định và khoan khoái. Nếu hệ thống đó yếu thì con người sẽ èo uột và dễ dao động. Những vị tu theo Tiên đạo luôn luôn xem việc luyện tập hệ thống bụng dưới là ưu tiên hàng đầu. Ngay cả những người tu thiền, nếu không có bụng dưới mạnh thì cũng không nhiếp tâm được. Trong pháp môn tu tập quán niệm hơi thở, Phật cũng dạy biết rõ toàn thân cũng có nghĩa là rèn luyện phần Âm ở dưới. Phương pháp Cố căn Có một phương pháp làm mạnh lên hai huyệt đạo quan trọng Hội âm và Dương cường, và cũng có nghĩa là làm cho đầu óc tỉnh táo rỗng rang hơn, đó là phương pháp cố căn. Vì hậu môn con người nằm giữa hai huyệt Hội âm và Dương cường nên khi nhíu chặt hậu môn thì hai huyệt trên được củng cố. Khi hít vào, ta nín thở, và thực hiện cố căn ba lần, rồi thở ra. Tập luyện cố căn như vậy, tâm rất dễ nhiếp, và chữa được những bệnh thuộc về thần kinh não. Nhiều người tập khí công có tập cố căn như thế, đến khi chuyển qua tu thiền luôn được kết quả tốt. Ngoài lúc tập "cố căn ", chúng ta cũng thường xuyên để tâm ở phía dưới phần bụng, chân, hai lòng bàn tay khi đặt tay dưới bụng lúc ngồi kiết già, cũng là giúp củng cố thêm phần Âm của cơ thể. Tu thiền là phải kiểm soát tâm, nhưng nếu chỉ biết để ý phía trên đầu thì Âm lực sẽ mất dần. Đến lúc nào Âm lực không còn nữa thì bệnh thần kinh sẽ xuất hiện. Bệnh thần kinh não hầu hết là do căng thẳng, có nghĩa là lực chạy dồn lên đầu quá nhiều. Âm lực dưới bụng và chân có tác dụng giữ không cho lực bốc lên trên đầu. Khi Âm lực bị mất, Lực tự do bốc lên trên làm não bộ bị căng thẳng, hư hao, bệnh hoạn. Thần kinh não bệnh quá nặng có thể phá vỡ luôn trạng thái tâm thần, nghĩa là điên. Vì vậy, tuy phải kiểm soát tâm phía trên, nhưng chúng ta phải chia tâm xuống dưới, biết nhẹ nhàng phía dưới. Sau này, khi tâm vào định, chúng ta vẫn tiếp tục thấy rõ toàn thân chứ không bỏ thân. Nhiều người không biết điều này, tu thiền chỉ để ý trên đầu, khi vào định thì càng bỏ mất thân, vì thế Lực bốc cuồn cuộn lên trên, chẳng mấy chốc bị hư mất bộ não thành ra phế nhân. 3. Bảo vệ chân Âm Chân Âm là từ ngữ của Y học Đông phương, ám chỉ khí lực vô hình tiềm tàng của phần Âm bên dưới cơ thể. Chân Âm sung mãn là điều kiện để não bộ được bền vững, công phu tu thiền được tăng tiến. Có người có phước bẩm sinh được Chân Âm mạnh; có người yếu. Người tu thiền phải biết bảo vệ Chân Âm một cách kỹ lưỡng. - Không hoạt động thái quá về đầu óc, hoặc giác quan trên đầu mặt. Ngay cả việc xem Tivi nhiều cũng làm khí lực bốc lên trên. Đọc sách, lắng nghe, viết lách, sáng tác…. nhiều quá cũng khiến khí lực bốc lên. Làm người thì phải sử dụng đầu óc, nhưng chúng ta phải biết cân đối vừa phải, và biết giải tỏa stress, nghĩa là phải biết vận động tay chân đơn giản, biết tọa thiền để tâm xuống dưới…. - Những dục lạc thế gian cũng làm hao tổn Chân Âm. Đó chính là lý do người muốn tăng tiến tâm linh phải sống đời thanh bai trong sạch. Niềm vui cao thượng từ đạo đức thì rất tốt, nhưng những khoái lạc thì ngược lại. - Có những thực phẩm cay nồng như ớt tiêu, rượu cũng làm hao bớt Chân Âm. Có những hóa chất thực phẩm như hàn the, bột ngọt (mì chính), formaldehyte ướp thực phẩm, phẩm màu nhân tạo, đường hóa học… cũng làm hao tổn Chân Âm. - Có những hóa dược trị bệnh, trị bệnh nào đó nhanh chóng nhưng lại phá dần Chân Âm, nhất là các loại thuốc giảm đau. Chúng ta phải cẩn thận tránh những tác nhân có hại cho Chân Âm để giúp ích cho công phu Thiền định. Câu hỏi: Quan sát thêm về cơ cấu Âm Dương trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. ĐỐI CHIẾU GIỮA TỨ THIỀN & TỨ QUẢ Tứ Thiền là bốn mức nhập định từ cạn đến sâu do Phật phân định một cách chuẩn mực. Chính Phật cũng đi qua bốn mức nhập định này để chứng đạo. Trong suốt cuộc đời hoằng hóa, Phật cũng lập đi lập lại về tiêu chuẩn bốn mức thiền để nhắc nhở đệ tử. Rồi trong giây phút cuối cùng tại rừng Sala ở Câu thi na (Kusinara), Phật cũng nhập xuất tự tại bốn mức thiền trước khi nhập Niết bàn hoàn toàn. Đó là tinh túy của Phật Pháp được Phật gửi gấm qua hành động nhập xuất thiền mà không nói bằng lời nữa. Các đệ tử của Phật làm gì thì làm, phải tu tập để thành tựu khả năng nhập xuất tự tại bốn mức thiền như thế. Bên cạnh tiêu chuẩn kỳ tuyệt về bốn mức Thiền, Phật cũng xác lập ra bốn Thánh quả giải thoát từ thấp lên cao. Người chứng được một trong bốn Thánh quả này được xem là có tư cách của thánh, có thánh tính, có giá trị làm thánh, vượt lên khỏi sự tầm thường của con người. Tiêu chuẩn để đánh giá các quả thánh là dựa vào mức độ tăng trưởng Đạo đức qua việc phá trừ các Kiết sử, khác với tiêu chuẩn của Tứ thiền là dựa vào mức độ nhập định sâu cạn. Nhiều người đã cảm thấy mơ hồ về sự khác nhau của Tứ Thiền và Tứ Thánh quả vì cả hai đều rất cao cả vĩ đại, đều là những nấc thang hướng về giải thoát. 1. Tứ Thiền Tứ thiền nghĩa là bốn mức độ nhập định được chia ra Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Bốn mức thiền này đều có nhập và xuất, nghĩa là khi muốn an trú mức thiền nào, ta phải có thời gian dụng công chứ không phải đó là những trạng thái thường xuyên. Rồi khi muốn trở lại trạng thái như cũ, ta cũng phải mất công thoát ra chứ không phải tức thì được. Bình thường khi không nhập thiền, một thiền giả an trú trong nội tâm tỉnh giác vắng lặng nhưng không phải là bốn mức thiền này. Bốn mức thiền này chỉ được thực hiện trong tư thế bất động mà thôi. Tuy nhiên, cũng có khi một thiền giả vừa đi vừa nhập thiền rất sâu. Lúc đó, vị đó được xem là khởi thần thông, vì thần thông có nghĩa là vừa vào định vừa hành động. Chúng ta cần hiểu qua tính chất của Tứ thiền trước khi so sánh với Tứ thánh quả. Những điều được trình bày ở đây là dựa vào bài kinh Sa Môn Quả trong Trường bộ kinh. Sơ Thiền là mức nhập định đầu tiên, nhưng phải là đã chứng được Chánh niệm tỉnh giác và phá trừ xong Năm triền cái. Hành giả như lọt vào một trạng thái thanh tịnh hơn, và tự động, chứ không còn phải gắng sức giữ gìn như trước kia nữa. Khi chứng được Chánh niệm, hành giả thấy tâm mình cũng đã là thanh tịnh rồi, nhưng còn phải khéo léo giữ gìn nhẹ nhẹ. Nhưng từ Sơ thiển trở đi, hành giả không còn phải giữ gìn nữa mà tâm tự động an trú trong định. Hành giả thấy thân của mình chuyển từ trạng thái cứng (lúc phá xong triền cái Trạo cử) sang trạng thái mềm lỏng như một khối nước gì nhớt nhớt giống như xà bông. Tâm hành giả dĩ nhiên là vắng lặng, nhưng thật ra vẫn còn những ý niệm về công phu của mình, về thành tựu của mình. Những ý niệm này rất thầm lặng nên hầu như hành giả không biết là mình đang còn ý niệm, cứ tưởng rằng mình đã hoàn toàn thanh tịnh. Phật diễn tả đó là trạng thái “ly dục sinh hỷ, còn tầm còn tứ”, và toàn thân như một khối nước pha với bột tắm (giống như nước xà bông bây giờ). Trong Sơ thiền, hành giả lìa bỏ được các ham muốn thế gian vì niềm an vui của nội tâm vừa đầy đủ vừa thanh khiết. Toàn thân hành giả luôn ở trong trạng thái vui sướng nhè nhẹ và tràn đầy. Đây đúng là phước cõi trời. Cái ý niệm thầm kín về công phu và sự thành tựu của mình tạo nên một loại kiến giải Phật Pháp và tâm tự hào bí mật. Hành giả sẽ dễ dàng hỏi đáp các thiền ngữ bí ẩn, hay say sưa thuyết pháp nếu có cơ hội. Vì vậy, tuy Sơ thiền rất là vĩ đại nhưng cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ đối với đạo đức. Nhị thiền là kết quả tiếp theo nếu hành giả đủ công đức. Hành giả sẽ thấy toàn thân mình giống như nước trong mát tuôn trào bất tận mà Phật diễn tả như hồ nước được suối phun và mưa tuôn mãi mà không bao giờ lọt nước ra khỏi hồ. Dĩ nhiên nước thì mềm hơn, lỏng hơn nước sệt sệt của xà bông. Từ toàn thân cứng của Chánh niệm, tiến lên Sơ thiền thì thân mềm ra thành nước xà bông sệt sệt, tới Nhị thiền thì thân đã mềm hoàn toàn như nước nguyên chất, và lại còn thêm cảm giác tuôn tràn mãi, tuôn tràn mãi. Niềm vui của Nhị thiền thì đằm thắm hơn Sơ thiền vì bớt đi cái tự hào và ý niệm. Phật gọi Nhị thiền là định sinh hỷ lạc nghĩa là niềm vui của Nhị thiền thật sự do tâm hoàn toàn an ổn trong định mà có. Lúc này những ý niệm thầm kín cũng biến mất, nên trong đời sống hành giả không còn ham thích trình bày phô trương, và rất hiền lành. Phật gọi là hết tầm hết tứ. Lúc này hành giả thành tựu trí tuệ rất sắc bén nhanh nhạy, kiến giải Phật Pháp là bất tận vô ngại, việc gì nhìn thoáng qua là biết rõ, ngồi thiền rất lâu, thường biết trước giờ chết. Nếu đừng bị tà kiến xâm nhập thì đường giải thoát của người đạt Nhị thiền là chắc chắn. Nếu bị tà kiến, lầm cho mình là viên mãn, tưởng rằng mình đã kiến tánh thành Phật, thì hành giả hưởng hết phước kiếp này, qua kiếp sau sẽ bị thoái đọa lui sụt xuống mức độ thấp hơn nhiều. Tam thiền được Phật diễn tả toàn thân như một bông hoa sen đang vươn lên từ trong nước, được nước bao phủ, với nội tâm là xả niệm lạc trú, niềm an lạc là vi diệu vô tận. Niềm vui của Tam thiền rất đằm thắm nhỏ nhiệm và đầy khắp, giống như bông hoa sen ngập trong nước, tẩm ướt, tràn ngập, nhưng không thấm nước, cũng vậy, niềm vui của tam thiền rất tự tại bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy. Thân của hành giả lúc này giống như một khối không khí hân hoan an lạc. Ý nghĩa của từ xả niệm là hành giả đã vượt khỏi Tưởng ấm vào được Hành ấm, kiểm soát được Hành ấm. Hành ấm là phần tâm Vô thức bí mật của mỗi người mà chính ta không thấy được. Rất nhiều sự sáng tạo, suy luận, truy tìm, tính toán… đều là của Hành ấm. Tưởng ấm chỉ là bày hiện ra một phần rất nhỏ. Tốc độ của Hành ấm là cực nhanh. Kiểm soát được Hành ấm có nghĩa là tâm hồn đã thật sự ổn định. Những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ… đều bị kềm chế. Lúc này, khi ngồi thiền nhập định, hành giả không còn nghe thấy mọi cảnh vật tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình. Hành giả đã có được thần thông khá nhiều, có thể biết được nhiều chuyện, có thể làm được nhiều chuyện phi thường. Hành giả cũng có thể làm chủ sống chết, muốn chết lúc nào cũng được. Tuy nhiên theo đường lối của Phật dạy, nếu sử dụng thần thông lúc này, hành giả sẽ bị đứng lại, khó tiến đến giải thoát hoàn toàn. Đến mức độ này, thật sự vị ấy đã là một vị thánh phi thường giữa trần gian. Điều trở ngại vẫn là tà kiến. Nếu bị tà kiến để cho mình là Phật, tương đương với Phật thì vị ấy sẽ bị thoái đọa ở một kiếp khác vài nghìn năm sau. Tứ thiền là mức thiền cuối cùng để chứng ngộ. Phật diễn tả đó là trạng thái xả niệm thanh tịnh, không lạc không khổ. Từ xả niệm ở đây khác với xả niệm của Tam thiền. Xả niệm của Tam thiền có nghĩa là vượt ra khỏi Ý thức để nhập được vào Vô thức. Còn Xả niệm của Tứ thiền có nghĩa là vượt khỏi tâm thức hoàn toàn, kể cả Vô thức và Ý thức. Vì bản ngã được chứa đựng trong Tâm thức nên khi không còn tâm thức thì Bản ngã cũng chấm dứt. The Ego exists in mind, so once mind comes to end, Ego disappears, too. Phật diển tả Tứ thiền giống như một người ngồi với tấm vải trắng trùm hết toàn thân. Cũng vậy, toàn thân không còn là cứng như khúc gỗ của Chánh niệm, không còn mềm sệt sệt như nước xà bông của Sơ thiền, không còn lỏng hoàn toàn như nước tinh khiết của nhị thiền, không còn nhu nhuyến như cả bầu không khí của Tam thiền, mà đã trở thành một khối ánh sáng thuần tịnh. Toàn thân là sáng suốt, toàn thân là trí tuệ. Tuy nhiên ta đừng lầm. Thân trở thành một khối ánh sáng thuần tịnh khác với người mới vào thiền toàn thân phát hào quang mà người ngoài nhìn thấy được. Khi đến giai đoạn này, tự nhiên hành giả bị bắt buộc phải trải qua kinh nghiệm Tam minh. Đầu tiên là nhớ lại vô lượng kiếp quá khứ của mình với từng chi tiết nhỏ để thành tựu Túc mạng minh. Kế đến là thấy sự lưu chuyển sinh tử của vô số chúng sinh ở các cõi theo nghiệp duyên thiện ác để thành tựu Thiên nhãn minh. Cuối cùng là thấy rõ bản chất đau khổ của luân hồi sinh tử, nguyên nhân của đau khổ, bản chất của Niết bàn, và con đường đưa đến Niết bàn để thành tựu Lậu tận minh. Sau khi thành tựu Tam minh, vị này đã hoàn toàn là một vị thánh Alahán siêu việt giải thoát. Như vậy đi bằng con đường Tứ thiền, hành giả vẫn đến được quả thánh thứ tư là Alahán. 1. Tứ quả Tứ thánh quả lại không đề cập đến mức độ hay trạng thái nhập định, mà lại dựa vào tiêu chuẩn phá các kiết sử, nghĩa là dựa vào mức độ thăng tiến Đạo đức. Phật cũng không đưa ra một công thức nhất định giữa đạo đức và thiền định, mặc dù cuối cùng thì Tứ thiền với Tam minh bằng Tứ thánh quả Tứ thiền + Tam minh = Đệ Tứ thánh quả Còn những giai đoạn trước đó ta không tìm thấy một mối liên hệ rõ ràng. Sơ quả Tu đà hoàn (Sotàpatti) là thánh vị đầu tiên sau khi đệ tử Phật phá được ba kiết sử Thân kiến, Giới cầm thủ và nghi. Thân kiến nghĩa là vị kỷ. Người chưa chứng được Sơ quả thì hay bị tâm vị kỷ chi phối để chỉ biết nghĩ lợi phần mình. Người chứng được Sơ quả thì tâm vị kỷ biến mất, thay vào đó là đời sống vị tha tràn đầy. Tâm vị tha này chưa phải là tâm Vô ngã như Alahán mặc dù rất biết hy sinh. Nhưng thật ra phải rèn luyện đạo đức để có tâm vị tha thì người này mới có thể chứng Sơ quả được. Tâm tìm được sự vắng lặng, hưởng được niềm an vui của thiền định cũng giúp hành giả nhẹ đi tâm vị kỷ. Giới cấm thủ nghĩa là tâm cố chấp. Người phá được kiết sử này thì không cố chấp vào hình thức, vào những lề thói bất hợp lý, vào những quy luật sai lầm, vào những phương pháp hạn chế, hay những dư luận bên ngoài. Họ chỉ làm gì đúng với Đạo lý, đúng với mục tiêu giác ngộ và Đạo đức. Tâm an ổn trong thiền định cũng giúp phá được kiết sử này. Nghi nghĩa là chưa xác quyết được lý tưởng giác ngộ, chưa xác quyết được lòng tôn kính Phật, chưa tin chắc mình đã tìm được hướng đi đúng. Người chứng được Sơ quả thì ngược lại, đã xác quyết được hướng đi, lý tưởng và lòng tôn kính Phật tuyệt đối. Phải có kết quả an ổn trong thiền định, người ta mới có những tính chất tích cực như vậy. Do đó, những vị chứng Sơ quả bắt buộc cũng phải là những người có được kết quả nào đó trong thiền định. Có thể vị đó đã chứng được Chánh niệm tỉnh giác, hoặc đã chứng được Sơ thiền, nhưng không nhất định. Một vị chứng Sơ quả thì có thể có trình độ thiền định của Chánh niệm, hoặc Sơ thiền, thậm chí Nhị thiền. Nhưng ngược lại, một vị chứng thiền định như thế thì chưa chắc chứng được quả thánh nào. Đó là lý do tại sao ngoại đạo có thể chứng thiền định nhưng không thể chứng thánh quả là vậy. Thánh quả khác với thiền định ở chỗ đòi hỏi trí tuệ, đạo đức, quan điểm. Thiền định chỉ cần tâm vắng lặng là đủ mặc dù ta biết rằng muốn tâm đi vào vắng lặng lại phải có Công đức, Đạo đức và Khí công. Hầu hết những vị chứng thánh quả đều có nguyên nhân từ kiếp xa xưa đã từng hết lòng tôn kính một vị thánh giác ngộ nào đó. Điều này giống như Thánh nối tiếp Thánh thành một dòng bất tận. Còn việc thành tựu thiền định thì chỉ đòi hỏi công đức đem được nhiều niềm an vui cho con người. Tuy nhiên, hầu hết ai đạt được điều này thì cũng đạt được điều kia, cũng đều đã có lòng tôn kính Phật, đã từng đem an vui cho con người, đã từng rèn luyện chính mình trong những tiêu chuẩn đạo đức khắt khe. Điều khác nhau giữa Thánh quả và bốn mức thiền nữa là sự hứa hẹn ở vị lai. Đối với các mức thiền, Phật chỉ diễn tả và ca ngợi trạng thái tâm thức. Còn đối với Thánh quả, Phật hứa hẹn sự giải thoát hoàn toàn ở vị lai theo từng quả vị khác nhau. Ở Sơ quả Tu đà hoàn, Phật ấn chứng rằng vị này chắc chắn sẽ giải thoát nhưng không đưa ra thời gian cụ thể. Riêng tài liệu của Phật giáo Bắc tông thì cho rằng vị chứng Sơ quả sẽ còn bảy lần tái sinh vào cõi người rồi sẽ chứng Alahán. Đây là điểm khác nhau giữa hai hệ thống Phật giáo. Nhị quả Tư đà hàm (Sakadàgàmì, sakim có nghĩa là một lần, àgamì có nghĩa là đến) hiện hữu nơi người đã phá xong ba kiết sử trên và tiếp tục làm mỏng nhạt tham và sân. Người chứng Nhị quả chưa phải là người đã phá trừ hết hai kiết sử Tham và Sân, chỉ là bớt đi tham và sân. Tham và Sân ở đây là những gốc tâm thức rất sâu chứ không phải những cái tham sân thường mà ta vẫn thấy. Vì vậy, Nhị quả chưa cần diệt hết Tham Sân, nhưng làm mỏng nhạt Tham Sân đã đủ để ta không bao giờ nhìn thấy vị ấy khởi tham và sân nữa. Còn Tham Sân vi tế thì phải đợi đến Tam quả mới diệt sạch. Ta sẽ nhớ rằng sau khi chứng được Chánh niệm tỉnh giác, hành giả sẽ tiếp tục phá trừ được Năm Triền cái, trong đó có hai triền cái là Tham và Sân. Cái khác nhau giữa Triền cái Tham Sân và Kiết sử Tham Sân là: Triền cái có nghĩa là buộc và che. Kiết sử có nghĩa là cột và sai khiến. Hai nghĩa nghe na ná nhau, và từ xưa Phật cũng không đưa ra sự phân biệt rạch ròi. Ta chỉ thấy trong Năm Triền cái phải được phá để vào Sơ thiền thì có Triền cái Nghi trùng với Kiết sử Nghi được phá ở Sơ quả, có Triền cái Tham Sân trùng với Kiết sử Tham Sân được phá ở Nhị quả. Vì cả Năm Triền cái được phá ở trước Sơ thiền đều không có Thân kiến và Giới cấm thủ nên ta không dám kết luận phá được Năm triền cái là chứng các thánh quả tương đương với Sơ quả và Nhị quả hay Tam quả. Nhưng ta phải công nhận rằng người phá được Năm Triền cái là đã có những tính chất cao quý của Thánh rồi. Ta có thể tạm cho rằng Triền cái có nghĩa cạn hơn Kiết sử, và tiếp tục suy luận rằng nơi Nhị quả làm mỏng nhạt kiết sử Tham Sân, nơi Tam quả diệt sạch kiết sử Tham Sân có nghĩa hoàn toàn hơn là phá được Triền cái Tham Sân. Giữa một thế gian đầy tham lam thù hận, người hết sạch tham sân quả thật là ánh sáng. Ta cũng hiểu rằng để cho cõi lòng không còn tham sân thì tâm vị ấy cũng phải cực kỳ yên tĩnh. Phật cũng ấn chứng cho người chứng được Nhị quả Tư đà hàm sẽ chỉ còn một lần tái sinh lại cõi đời này và chứng Alahán. Tam quả A na hàm (anàgàmì có nghĩa là không đến nữa) xuất hiện nơi vị đã tiếp tục diệt sạch hai kiết sử Tham và Sân. Nhân duyên làm chúng ta cứ bị liên lụy với cõi đời này chính là do tham lam, tham dục, hận thù, ganh ghét. Hết hai kiết sử Tham và Sân rồi thì nhân duyên với thế gian này cũng hết. Do vậy, một vị chứng Anahàm thì không còn bị tái sinh về cõi này nữa, sẽ hóa sinh giữa cõi trời Sắc cứu kính, sau một thời gian không nhất định, sẽ chứng Niết bàn tại đấy. Chúng ta không cần lạm bàn về những tính cất siêu việt của một vị Anahàm, chỉ đối chiếu với bốn mức thiền để hiểu ra sự giống và khác mà thôi. Chúng ta cũng không nghe nói là phải chứng được mức thiền nào thì cũng tức là chứng Anahàm, chỉ theo lời Phật dạy để biết rằng ai có thể diệt trừ năm kiết sử từ Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, Tham và Sân thì đạt được đệ Tam thánh quả. Đó là năm điều bất thiện, phi đạo đức giam chúng sinh làm một kẻ phàm phu tầm thường. Ai thoát ra khỏi năm điều phi đạo đức đó thì trở thành bậc thánh không bao giờ trở lại làm người tầm thường nữa. Nhưng vẫn còn năm điều bất thiện vi tế hơn sẽ tiếp tục giam giữ bậc thánh Anahàm lại khiến cho vị này không đạt đến sự giải thoát giác ngộ tuyệt đối, đó là: - Sắc ái: là tâm yêu thích cảnh giới cõi trời, nhất là cõi trời cao siêu như Sắc cứu kính. - Vô sắc ái: là tâm ưa thích nơi cõi giới Vô sắc, đó cũng được xem là cõi trời nhưng chỉ còn có tâm vắng lặng rất sâu mà không còn có hình thể nữa. Hai cõi giới trên rất là cao cả vi diệu, an lạc, mà ai cũng tưởng lầm là chỗ an trú tuyệt đối cuối cùng nên chấp giữ. Chỉ có Phật mới biết những cõi giới đó vẫn còn hữu hạn. - Phóng dật: vì cảnh giới chứng ngộ của Anahàm rất cao siêu nên chính các vị đó cũng âm thầm tự mãn. Tâm tự mãn này cực kỳ vi tế mà chính vị đó không hay biết nếu không được Phật cảnh báo. Vì tự mãn nên vị Anahàm tuy ở trong định mà vẫn còn chút tâm an trú, tâm chấp giữ, tâm thụ hưởng. Vì những điều này mà Phật chê Anahàm còn phóng dật. - Mạn: là còn chút tâm thấy mình vượt hơn chúng sinh. Một vị Alahán hoàn toàn giải thoát thì thấy mình với chúng sinh là một; còn một vị Anahàm dù rất tự tại vẫn còn một chút cực kỳ vi tế thấy mình hơn chúng sinh. Vì lỗi này mà Phật bảo Anahàm vẫn còn kiêu mạn. Quả thật, không có Phật soi đường dẫn lối thì không ai có thể biết nổi những lỗi quá vi tế này. - Vô minh: vô minh là gì thì chỉ có Alahán với Phật mới biết, chúng ta không bao giờ cảm nhận nổi. Chúng ta chỉ tạm hiểu rằng vì vô minh nên chúng ta chấp ngã và không chứng ngộ Niết bàn. Thật ra ngay cả chấp ngã là gì cũng không ai biết. Một vị có thể nhập định vài ba ngày, tâm rỗng như hư không cũng chưa thấy được bản ngã là gì. Bản ngã sâu kín như thế, bí mật như thế nên khó ai thoát ra được. Có khi người ta đã duy trì bản ngã bằng các giáo lý nghe cao siêu chất ngất, người ta đã tôn vinh tâm mình, đề cao tánh mình, không biết rằng họ đã đầu hàng bản ngã. Alahán (Arahanta) là quả thánh cao siêu cuối cùng, thật sự giải thoát, giác ngộ viên mãn. Vị alahán đầy đủ thần thông tự tại phi thường, không còn bị cuốn vào luân hồi sinh tử nữa, trừ trường hợp thị hiện vì đại nguyện. Sự vĩ đại của một bậc Alahán thì không một ngôn từ nào có thể diễn tả được. Mỗi người chỉ tùy theo nhân duyên và trí tuệ của riêng mình để hiểu một phần nho nhỏ nào đó mà thôi. Khi bản ngã không còn, vị Alahán trở thành toàn thể vũ trụ nên hiểu biết tất cả mọi điều trong vũ trụ; khi bản ngã chấm dứt, vị Alahán trở thành toàn thể chúng sinh nên yêu thương tất cả chúng sinh. Khi bản ngã đã hết, vị Alahán không còn bị ràng buộc bởi sức mạnh nào đối với luân hồi sinh tử nên hoàn toàn giải thoát. Sau khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, một vị Anahàm sẽ chứng Alahán, nghĩa là đạo đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Không một thần thánh thiên tử nào có thể tìm thấy lỗi lầm của một vĩ Alahán nữa. Nơi đây, đương nhiên một vị Alahán cũng đã thành tựu xong bốn mức thiền. Tứ thiền và Tứ thánh quả đều hiện diện đầy đủ nơi vị Alahán như thế. 3. Năm mức định Ngoài bốn mức thiền và bốn thánh quả, ta còn nghe Phật nói về năm mức Định. Nhiều người hiểu lầm rằng năm mức định cao hơn Tứ thiền. Thật ra năm mức định tương đương với bốn mức thiền, khác nhau về cách hướng tâm mà thôi. Để thành tựu tính chất của Thiền, hành giả phải dùng tâm bám sát vào thân, theo dõi thân. Kết quả đạt được trong Thiền cũng liên quan đến các trạng thái của thân như cứng ngắt, mềm mại, như không khí, hay như ánh sáng. Còn để thành tựu những tính chất của Định, hành giả phải buông tâm không trú vào đâu cả, và như thế, tâm dễ mở rộng thênh thang. Tu theo Thiền dễ nhiếp tâm hơn tu theo Định. Không vô biên xứ định là tương đương với Sơ thiền, hành giả thấy tâm như là hư không trống rỗng thênh thang. Thức vô biên xứ định là tương đương với Nhị thiền, hành giả thấy trong cái thênh thang trống rỗng đó đều cái biết. Cả cây đá cũng có cái biết. Vô sở hữu xứ định là tương đương với phần đầu của Tam thiền, hành giả thấy cả đất trời vũ trụ này không có gì hiện hữu cả. Giống như câu nói không một vật mà các thiền sư hay dùng. Phi tưởng phi phi tưởng định là tương đương với phần sau của Tam thiền. Tâm của hành giả như là có vì còn biết, nhưng cũng như là không vì quá thanh tịnh. Lúc này biết mà dường như không biết. Diệt tận định hay Diệt thọ tưởng định là tương đương với Tứ thiền. Một vị thánh nhập vào định này tức là đang an trú vào cảnh giới của Niết bàn dù chưa bỏ thân. Đây cũng là bản thể của vũ trụ pháp giới. Chỉ ai chứng Alahán mới nhập được định này. Câu hỏi: Nếu ai nói rằng tu theo đạo Phật là thụ động thì phải trả lời làm sao? Cả vũ trụ mênh mông như thế Chỉ nằm vừa trong một bàn tay Dòng thời gian kéo dài vô kể Một thoáng nhìn ánh mắt Như Lai Luật nhân quả trùm lên các cõi Chi phối từng hạt bụi cánh hoa Điều thiện ác dẫu như làn khói Quả báo rồi chẳng thể tránh qua Phật đã đến mở đường chánh kiến Đêm mờ sương chợt hiện ánh dương Điều tội phước khó mà bày biện Nhờ có Người chợt rõ như gương Tin nhân quả con luôn cẩn thận Từng hành vi lời nói của mình Giữ tâm hồn không cho nhiễm bẩn Để xa dần chấp ngã vô minh Tin nhân quả con luôn suy xét Tránh không làm tổn hại chúng sinh Tâm dè dặt mọi điều thương ghét Để không thành oan trái lai sinh Tin nhân quả con tôn kính Phật Tạo thành nền công đức sâu xa Dễ nhìn thấy điều hay lẽ thật Tránh được nhiều lầm lỗi phong ba (trích Cảm Niệm Thành Đạo 2018 - Thiền Tôn Phật Quang) TỨ GIẢ SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG “…Một bậc Bồ Tát đắc đạo, thần thông tràn ngập, phước của Ngài thì vô lượng vậy tội còn đâu để mà sám hối? Mà để đủ phước khai mở tâm linh, thành tựu được Thánh quả thì phải nói rằng cái nghiệp của vị ấy đã không còn, tức là bề dày công đức phải rất lớn mới đủ để đắc đạo. Chúng ta nghe thấy rất lạ, tại sao bậc Bồ Tát đã thanh tịnh đắc đạo rồi mà lại còn có tâm sám hối nghiệp xưa? Đây là điều hết sức tinh tế trong đạo đức. HỎI: Người đã đắc đạo có khả năng nhớ lại nhiều kiếp xưa của mình vậy điều gì làm vị Bồ Tát ấn tượng và nhớ nhất trong vô lượng kiếp của bản thân? Một vị Bồ Tát có khả năng nhớ lại tiền kiếp của mình, nhưng điều mà các Ngài ấn tượng không phải là những việc thiện họ đã làm, cũng không phải là những điều tốt họ đã gieo, mà chính là những lầm lỗi họ đã gây trong quá khứ nên các vị nhớ mãi. Đó chính là đặc tính của Bồ Tát. Đặc tính ấy trái ngược hẳn với phàm phu chúng ta là khi làm được điều gì tốt thường nhớ mãi cái công mà mau quên cái tội của mình. Thật ra, trong vô lượng kiếp ai cũng đã tạo vô số lầm lỗi. Phàm phu thì hoặc không biết lỗi, hoặc cố trả cho hết nghiệp rồi xem như xong. Chỉ người có đạo đức hơn một chút thì mong làm những việc tốt khác để bù lại lầm lỗi xưa. Và Bồ Tát là người có đạo đức tuyệt đối nên các vị cũng có tâm lý đó: Dù nghiệp đã trả xong, các vị vẫn muốn làm những điều tốt gấp nhiều lần để bù lại những tội lỗi mình đã gây ra. Khi các vị nhớ lại lỗi lầm trong kiếp xưa, dù lỗi lầm đó đã được trả bằng quả báo, dù lỗi lầm đó các Ngài đã làm nhiều việc phước để bù lại, những vẫn còn để lại vết nhơ khiến các Ngài luôn day dứt. HỎI: Vậy Đối với vết nhơ của mình trong vô lượng kiếp, Bồ Tát có thái độ ra sao? 1. Can đảm trả nghiệp ( nhưng vết nhơ đã hết chưa? Chưa, vẫn còn đó ). 2.Làm phước rất nhiều lần bù đắp hậu quả để nghiệp không nhúc nhích thêm (nhưng vết nhơ vẫn còn.) 3. Xóa vết nhơ bằng tâm hối hận rất chân thành. TT nói ta chỉ xóa được vết nhơ tội lỗi của mình trong kiếp này vô lượng kiếp xưa bằng tâm hối hận, đây là gốc rễ của vấn đề, còn sám hối là phát triển cao hơn. Vì thế hối hận là thuộc tính của đạo đức, người biết hối hận là người có đạo đức, còn người không hề hối hận là người không đạo đức, đấy là nguyên lý, nguyên tắc. Ngoài ra tâm hối hận là công cụ để tẩy vết nhơ tội lỗi của ta trong hiện tại và quá khứ. Ta cứ xem cái tâm hối hận của mình để biết đạo hạnh của mình đã tiến tới đâu. Muốn biết một người có đạo đức hay không thì xem người đó có khởi tâm tâm hối hận với lỗi đã phạm hay không? Nếu họ đối với lỗi đã phạm mà lòng dửng dung thì họ là người không có đạo đức. Còn nếu họ có tâm hối hận với lỗi lầm của mình thì họ là người có đạo đức. Họ sẽ cố gắng không phạm lỗi trong tương lại. Nhưng hối hận là gì? Ta không định nghĩa rành rọt được, chỉ biết rằng đó là thuộc tính của đạo đức.Ta cứ nhìn tâm hối hận của mình để biết rằng đạo đức, đạo hạnh của mình đã tiến đến đâu. Chỉ những người có tâm hối hận mới là người có đạo đức. Còn một bậc Bồ tát đạo đức tuyệt đối rồi, khi thấy được vô lượng kiếp của mình với vô lượng lầm lỗi thì dĩ nhiên cái tâm hối hận của vị ấy cũng là vô biên nhưng cũng thấy được lỗi của chúng sinh trong vô lượng kiếp thì các Ngài thương xót, thông cảm,tha thứ, không trách móc, giận hờn, khinh ghét... HỎI: Vì sao Bồ Tát lại thông cảm với lỗi lầm của chúng sinh? Bởi các Ngài hiểu sâu sắc động cơ, bối cảnh phạm tội của chúng sinh, vì sao mà họ phạm tội, rồi thông cảm và tha thứ nhưng không có nghĩa bỏ qua, vì thế trong lòng các Ngài khởi lên cái nguyện độ chúng sinh, nên vị Bồ Tát nào cũng bị day dứt và thôi thúc trong tâm là phải cứu độ chúng sinh, vì thấy chúng sinh tội lỗi ngập tràn nên các Ngài thương lắm. Đó là lý do mà vị Bồ Tát nào cũng đi lang thang trong luân hồi, chịu đủ điều khổ cực để tìm cách hóa độ chúng sinh. Hãy nhớ rằng không phải vị Bồ Tát nào cũng sinh về nơi sung sướng, thuận duyên. Trong quá trình đến với cuộc đời để giáo hóa chúng sinh các Ngài cũng phải đối diện với những nghiệp xưa, chịu đủ mọi điều đắng cay, nhục mạ, phỉ báng… nên rất vất vả, và các Ngài coi đó là chuyện rất bình thường. HỎI: Tại sao người ta phỉ báng nhục mạ bậc Bồ Tát, có phải vì xưa kia vị đó đã phỉ báng nhục mạ họ không? Ta phải hiểu nhân quả cho rộng, thật ra nhiều khi nó đến từ cái nghiệp sát chứ không phải từ khẩu nghiệp đơn thuần. Chẳng hạn, có vị Bồ Tát trong quá khứ đã từng làm vua làm tướng, và để bảo vệ đất nước vị ấy đã cầm quân tiêu diệt quân thù. Sang kiếp sau những kẻ xâm lăng khi xưa vẫn còn mang niềm oán giận, nên vừa gặp lại là thù ghét, muốn mưu hại, mắng chửi, phỉ báng vị Bồ Tát đó. Tuy mắng thì mắng nhưng họ không được quyền giết, vì ngày xưa vị vua, vị tướng ấy giết người là có lý do chính đáng. Đó là một ví dụ. Cho nên một vị Bồ Tát lang thang giáo hóa giữa cuộc đời rồi phải chịu đựng đủ điều khổ sở cay đắng. Ta kính thương các Ngài biết bao nhiêu là vì vậy! Nói về lợi ích của tâm hối hận, khi nghiệp trả hết rồi thì vết nhơ tội lỗi vẫn còn, chỉ có một cách xóa vết nhơ đó bằng tâm hối hận. Chỉ tâm hối hận lâu ngày mới làm vết nhơ biến mất. Đó là nguyên tắc. Nên khi một vị Bồ Tát thấy được vô lượng kiếp của mình với vô số lỗi, các ngài hối hận lâu dài cho đến khi vết nhơ đó mất luôn, giống như chưa bao giờ tồn tại. Công năng của hối hận là vậy, làm cho những lỗi lầm được xóa sạch giống như chưa bao giờ có. Đó là một nguyên tắc của trời đất, của nhân quả. HỎI: Vậy tâm hối hận này mất nhiều thời gian không? Cái tâm hối hận phải rất lâu, mất rất nhiều thời gian mới xóa tội của mình. Nếu ta làm lỗi trong vô lượng kiếp thì tâm hối hận phải cần gấp mười lần trong vô lượng kiếp mới xóa được tội của mình. Nói về công năng của sám hối, TT cho biết sám hối là bước cao của tâm hối hận ,đó là lý do TT nói rất nhiều về tâm hối hận là như vậy, chứ nếu nói ngay vào phép sám hối thì không đủ chiều sâu. Sám hối chính là nghi thức kết hợp giữa tâm hối hận và kính lễ Phật. tha thiết với tâm tôn kính. HỎI : Vì sao phải lễ kính Phật? Vì lễ kính Phật giúp ta xóa cái lỗi nhanh hơn rất nhiều. Nếu ta chỉ dùng tâm hối hận thì phải mất thời gian lâu xa vô cùng ta mới xóa được vết nhơ tội lỗi. Nhưng may mắn ta có Đức Phật - là bậc Thánh của cả pháp giới vũ trụ, với công đức vô lượng vô biên. Khi lễ kính Phật với cái tâm sám hối, ta được nương theo cái phước của Người và những lầm lỗi trong quá khứ sẽ được gột rửa nhanh hơn. Nhưng với điều kiện phải sám hối với cái tâm tha thiết. Còn nếu ta không nghĩ rằng mình đã tạo nhiều tội, sám hối không tha thiết thì tội không xóa nhanh được. HỎI: Nếu mình không nghĩ rằng mình nhiều tội thì tâm hối hận có tha thiết không? Không. HỎI: Khi thấy mình không có tội có tha thiết lễ Phật sám hối không? Không. HỎI: Vậy tội có hết không? Không, vẫn còn nguyên đó, vì có thấy lỗi đâu mà sám hối. Nên ở đây cần trí tuệ và niềm tin của ta. Khi ta lễ kính Phật để tha thiết sám hối thì lỗi xóa rất nhanh, những lận dận trong cuộc đời bớt dần, cuộc đời mình hanh thông hơn, mọi điều sáng sủa lên, may mắn đến dần. Chính vì ta luôn tin rằng trong kiếp này và vô lượng kiếp xưa mình đã tạo rất nhiều tội lỗi nên có tâm hối hận sâu sắc, cộng với tha thiết kính lễ Phật thành tâm, ăn năn sám hối nên tội được xóa, phước lành đang đến dần … HỎI: Cái gốc của tội nằm ở đâu ra? + Nguyên nhân gây tội: Tham, sân, si, ích kỷ, kiêu mạn, khoe khang, cố chấp, đố kỵ hơn thua, hiếu thắng, nhỏ mọn, nói xấu người khác với tâm ác độc, sơ ý không cẩn thận, phung phí, phản bội không trung thành, quên ơn, thất hứa, dễ tin… Trong bao nhiêu nguyên nhân khiến ta gây tội có một lỗi rất mắc cười đó là lỗi dễ tin, vì ta dễ tin nên dễ mắc mưu kẻ xấu, hiểu sai người tốt… + Khi lạy Phật ta nhớ sám hối tội lỗi trong vô lượng kiếp kể cả lỗi ta nhớ và không nhớ. Chú ý ta sám hối tâm bí ẩn là động cơ gây tội. Khi ta sửa được những lỗi trên là được Chư Thiên yêu mến rồi. + Có ba cách để gây tội : Tự tác ( Tự mình làm). Giáo tha tác ( xúi người khác làm). Tùy hỉ ( thấy người khác làm thì vỗ tay vui mừng). Ích lợi của việc hối hận: Khi ta hối hận tội cũ thì sẽ không phạm phải trong vị lai nữa, đạo nghiệp của ta tươi sáng hơn vì không phạm phải tội lặt vặt . Vì thế, người có tâm hối hận vì lỗi của mình thì không thể kiêu mạn, nên người biết hối hận là người có đạo đức. Người có tâm kiêu mạn lúc nào thấy mình hơn người, lúc nào cũng thấy mình giỏi thì sẽ không thấy lỗi, chắc chắn sẽ phạm nhiều tội trong vị lai…” Trích tóm tắt bài Pháp: “ Tứ giả sám hối nghiệp chướng" của SP Thượng Chân Hạ Quang. Tóm lược bài giảng: “THẾ GIỚI CỦA NGƯỜI CÕI ÂM” ( do Thượng tọa Thích Chân Quang thuyết giảng) Đi vào nội dung, Thượng tọa chỉ ra rằng thế giới tồn tại ở hai dạng vật chất. Một loại là mắt ta có thể nhìn thấy được như: bầu trời, cây cối,… Một loại là mắt ta không thể nhìn thấy được như: sóng điện thoại, linh hồn,… Nghĩa là cái nhìn của mắt ta coi vậy mà bị hạn chế rất nhiều. Một trong những cái mắt ta không thể thấy chính là cõi âm. Hiện tại có hẳn một môn học gọi là tâm linh học để nói về điều này. Để hiểu và bước được vào môn học này, đầu tiên ta phải chấp nhận tiền đề: “chết không phải là hết”. Tức là sau khi chết đi, chúng sinh vẫn tồn tại, chỉ là ở một dạng khác mà thôi. Tiền đề này ta không thể chứng minh được nhưng phải chấp nhận vì nó quá hợp lí. Ở Việt Nam, người đầu tiên dám tuyên bố tiên đề này một cách mạnh mẽ trên văn bản là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong di chúc Bác có viết: “…tôi để sẵn mấy lời này phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê Nin và các vị cách mạng đàn anh khác…”. Không chỉ Bác Hồ, thế giới cũng đã biết có sự tồn tại của cõi âm nhưng họ vẫn đang loay hoay, chưa biết cách khai thác và ứng dụng nó. Vậy nên, câu nói này của Bác đã mở ra nền tâm linh học đi trước cả thế giới cho chúng ta. Lý giải về tiên đề trên, Thượng tọa khẳng định, sau khi chết đi, chúng sinh vẫn tồn tại nhưng không phải ở dạng vật chất mà là linh hồn. Nếu khi còn sống, ta biết đến chùa nghe Pháp, ngồi thiền, làm nhiều việc phúc thiện thì sau khi chết, linh hồn ta ở đẳng cấp cao hơn, gọi là thiên thần. Ngược lại, khi còn sống mà không biết tu hành, chỉ lo hưởng thụ, khi chết, linh hồn ta ở đẳng cấp thấp, gọi là ma. Khi còn sống mà phạm tội quá nặng, sau khi chết, linh hồn của ta là tù nhân dưới địa ngục. Còn khi sống mà ngu si, ngang bướng, sau khi chết sẽ đọa súc sinh, v.v.. Quả thực, có quá nhiều con đường để ta đi sau khi chết. Nhưng đi con đường nào lại do thái độ, hành vi lúc sống của ta quyết định. Đây chính là tính chất công bằng của vũ trụ. Nói về các linh hồn, Người nhấn mạnh, sau khi chết đi, những vong không có cơm ăn, áo mặc, không có người nào yêu thương, nên họ rất thèm khát cuộc sống vật lý cũng như sự hiện diện trên đời này giống chúng ta. Chính vì cô đơn nên họ thường tập trung thành bầy đàn, gọi là “các đảng”. Nhưng dù họ có tồn tại thì chúng ta cũng không thể thấy được. Phải nói rằng, việc không nhìn thấy các vong hồn là một sự thua thiệt của con người, bởi nếu thấy họ, chúng ta sẽ biết cách hành xử hợp lý, mang lại rất nhiều lợi ích cho bản thân và xã hội. Vì không thấy họ nên chúng ta gần như không hiểu họ, không biết cách đối xử đúng đắn với họ. Thực sự, sự tồn tại của cõi âm ảnh hưởng, tác động rất lớn đến cuộc sống của chúng ta. Càng không thấy họ thì chúng ta càng phải tìm hiểu kỹ về họ để khai thác, ứng dụng làm lợi cho cuộc sống của mình. Để giúp các Phật tử hiểu rõ vấn đề này, cũng như cách ứng xử phù hợp trong từng hoàn cảnh, Thượng tọa đã chỉ ra 6 trường hợp ma xuất hiện trong cuộc sống hằng ngày của con người: Một là ma cố ý hiện hình cho con người nhìn thấy. Hai là hiện tượng bóng đè. Ba là vong tác động vào tâm lý của ta khi còn thức. Bốn là vong mách bảo cho ta điều này, điều kia trong cuộc sống. Năm là ma ở chung nhà với ta. Sáu là vong nhập vào cơ thể sống của ta. Với mỗi trường hợp, Thượng tọa đều lí giải cặn kẽ, lấy ví dụ rất thực tế, đồng thời chỉ rõ cách ứng xử phù hợp cho các Phật tử. Người nhấn mạnh rằng, dù gặp trường hợp nào, chúng ta cũng không nên sợ hãi, cũng đừng bỏ chạy bởi ma chỉ xuất hiện, gặp gỡ những người hiền lành; ở những nơi đầy khí lành. Thay vào đó, ta nên vui mừng, quay lại chuyện trò, nói những lời yêu thương, tử tế với họ. Nói về nguyên nhân xuất hiện của ma, Người khẳng định mọi việc đều do nhân quả. Có thể chúng ta mắc nợ họ; có thể do chúng ta quá dễ thương; cũng có thể do chúng ta không cúng đồ ăn cho họ,… Tuy nhiên, dù là lí do gì, thì chúng ta cũng đừng tìm cách xua đuổi họ, bởi ta đã nợ họ thì phải trả, không thể cưỡng lại nhân quả được. Thay vì tìm bùa chú, nhờ Pháp sư,… Người khuyên chúng ta nên thường xuyên đến chùa tụng kinh, lễ phật trợ duyên cho vong linh để các vong biết tu tập, dần dần thay đổi tâm tính, trở thành người bạn tốt của ta, hỗ trợ cho ta trong cuộc sống. Khi đủ phước đức, họ sẽ đầu thai và không xuất hiện cạnh ta nữa. Cái quan trọng nhất trong ứng xử với thế giới tâm linh là thái độ chứ không phải vật chất. Chỉ cần ta thành tâm, chăm chỉ tụng kinh cho họ nghe thì dần dần họ sẽ trở nên hiền hòa, hướng về Phật pháp. Từ đó, họ biết ơn ta, lúc nào cũng bảo vệ, hỗ trợ cho ta như một người bạn, âm thầm phù hộ, để ta tránh được những điều rủi ro, nhận được nhiều điều may mắn trong cuộc sống. Khi chết đi, bước vào cõi âm ta được nhiều người yêu thương, chào đón, ủng hộ. Lúc đó, ta sẽ cảm thấy ấm áp và không còn sợ hãi nữa. ( Trích tóm lược bài giảng “THẾ GIỚI CỦA NGƯỜI CÕI ÂM” – TT. Thích Chân Quang) https://thichchanquang.com/the-gioi-cua-nguoi-coi-am/ CHỈ CẦN QUÁN THÂN THÔI CŨNG ĐỦ ĐỂ CHỨNG ĐẠO (*) (Xin chú ý: Quán thân là bao gồm cả công phu điều thân + theo dõi hơi thở, chứ quán thân không phải chỉ là điều thân) -Nội dung này rất khó hiểu đối với những ai chưa thiết tha với thiền. Bây giờ chúng ta nói đến những kết quả xuất hiện sau một thời gian dài kiên trì quán tâm. Mặc dù chúng ta bước vào giai đoạn quán thân, nhưng cũng không được rời tâm khỏi công phu quán thân. Vẫn luôn luôn phải biết toàn thân. Đó là nguyên tắc của Tứ Niệm Xứ. Nơi cái biết rõ toàn thân này, chúng ta giữ cho thân ngồi bất động, mềm mại, đúng tư thế. Nơi cái biết rõ toàn thân này, chúng ta thấy thân này là vô thường, là hư ảo. Nơi cái biết rõ toàn thân này, chúng ta thấy hơi thở ra, hơi thở vào rõ ràng. Cũng nơi cái biết rõ toàn thân này, chúng ta thấy được những ý niệm khởi ra từ nơi thân này. Cũng từ nơi quán thân, mà ta quán thọ, quán tâm. Không bao giờ được rời khỏi quán thân, dù cho sau này mình có vào được thiền định, cũng không bỏ quán thân. Nên có nhiều người ngồi thiền khi tâm lắng vào an định, họ muốn đi sâu và tâm an định đó, tôi cản liền. Tôi khuyên họ không nên chìm sâu vào nội tâm an định ở trên đầu mà phải luôn giữ cái biết toàn thân cho rõ ràng. Không bao giờ được rời khỏi quán thân. Ở đây còn một bí quyết, thủ thuật, mánh, đó là thân của chúng ta như một chiếc đồng hồ giúp cho ta theo dõi được tâm của mình. Chỉ cần xem xét thân thôi, chúng ta có thể biết được tâm mình đang như thế nào. Nên trong bài Thân hành niệm, chúng ta nhớ, Đức Phật có nói “CHỈ CẦN QUÁN THÂN THÔI CŨNG ĐỦ ĐỂ CHỨNG ĐẠO”. Còn cái quán thọ, quán tâm để biết được thọ, biết được tâm, nó là một hệ quả tự nhiên. Vì mình học Tứ Niệm Xứ nên mình phải phân tích hết các phép quán, còn nếu mình thực hành thì thật sự, chỉ cần quán thân thôi là biết được tâm mình như thế nào. Đây là một bí quyết rất là bí mật. Tôi nói thế này để Quý Thầy ráng thực hành. Vì Quý Thầy có thực hành, Quý Thầy mới có thể hiểu sâu Tứ Niệm Xứ mà giảng lại một cách đầy uy lực, sức thuyết phục, sự thấu đáo cặn kẽ chi li, cho Phật tử nắm bắt, thực hành theo, chứ không phải chỉ đơn thuần lặp lại những câu từ trong kinh điển cổ xưa. Nếu không thực hành, không hiểu sâu, thì Quý Thầy không dạy được ai vì lời giảng của mình sẽ cạn cợt lắm, không có chiều sâu, không mang đến lợi ích cho ai hết. Uổng một đời tu hành của mình. Nên đầu hôm, cuối hôm, Quý Thầy phải ráng thực hành, bắt chân ngồi kiết già mà quán thân, biết rõ toàn thân rồi đi sâu vào quán thọ, quán tâm… Quý Thầy phải thiết tha thực hành, không được bỏ thiền! Vì Tứ Niệm Xứ không phải giáo lý học để hiểu suông trên lý luận, mà Từ Niệm Xứ là giáo lý học để thực hành. Thực hành rồi, mình mới có kinh nghiệm, có đạo lực mà giáo hoá chúng sinh, giữ gìn được Phật Pháp. Quý Thầy phải siêng năng, phải tinh tấn, làm sao cho việc tu thiền trở thành cơm ăn, nước uống, sự sống mỗi ngày của mình, làm công phu tu tập suốt đời của mình. Phải làm sao trong bất cứ mọi hoàn cảnh, dù mình rời chùa đi, dù mình ở một nơi thâm sơn cùng cốc, ở một mình không ai kiểm soát, hoặc là mình về nơi phồn hoa đô hội của phố thị, vẫn không bao giờ bỏ mất một thời thiền nào. Một người tu như vậy suốt đời mới là người tu chân chính. Phải giữ như vậy, đừng vì bất kì lý do nào mà trong ngày mình bỏ một thời ngồi thiền. Mà nhất là Tứ Niệm Xứ này quan trọng lắm. Nên tôi nói hết lời, tôi nói gãy lưỡi, nói tới khô miệng, nói tới đắng họng, nói bằng tất cả sự thiết tha của tôi, khuyên Quý Thầy phải ráng ngồi thiền. Nếu Quý Thầy còn thương yêu Phật Pháp, nếu Quý Thầy còn tôn kính Phật, nếu Quý Thầy còn nghĩ đến chúng sinh, thì bản thân mình phải ngồi thiền mỗi ngày. Phải thực hành cho thành tựu hết những kết quả của Tứ Niệm Xứ mà Phật nói… Phải ráng, phải thiết tha, phải tinh tấn, khổ cực gì cũng ráng ngồi thiền, đừng có bỏ. Giờ tôi nói đến những điều quan trọng, Quý Thầy lưu ý. Khi biết rõ toàn thân, ban đầu, chúng ta thấy thân này là một khối thịt xương nặng nề. Lúc đó biết tâm mình ở trên đầy vọng tưởng. Quý Phật tử bên dưới chú ý lắng nghe, đừng nói chuyện. Đoạn này quan trọng. Mọi người ráng ghi nhớ, đừng nói chuyện. Hãy lắng nghe kĩ đoạn này, đây là bí quyết rất khó được nghe. Quý Thầy Quý Phật tử phải có duyên lắm, hôm nay mới được “cưng” để được nói cho nghe…. Khi thấy thân mình là một khối thịt xương nặng nề, lúc đó biết trên tâm mình đầy vọng tưởng. Rồi đến khi mình ngồi một thời gian, mấy tháng, cũng biết rõ toàn thân như vậy, tự nhiên mình thấy thân mình nó nhẹ, không còn là khối thịt xương nặng nề nữa. Đó là dấu hiệu, tâm mình bắt đầu bớt được vọng tưởng. Không cần nhìn tâm, chỉ tiếp tục quan sát thân thôi, biết rõ toàn thân, không thèm nhìn đến tâm, không thèm nhìn coi có vọng tưởng hay không có vọng tưởng, mà chỉ tiếp tục biết toàn thân nhẹ nhàng, mà tràn đầy. Có những lúc ngồi quán thân như vậy, ta thấy thân mình lâng lâng, bay bổng. Là biết tâm mình đang có ảo giác. Đó là dấu hiệu công phu bị sai, phải sửa, phải sám hối. Có những lúc mình biết rõ toàn thân, thấy thân mình rạn vỡ ra thành từng mảnh từng mảnh. Là dấu hiệu tâm mình ở trên cũng đang tan vỡ ra, vỡ vụn ra, đang dần dần đi vào trong thanh tịnh. Đến lúc nào đó mình quan sát thân mình, biết rõ toàn thân, mà thấy thân mình như không có nữa. Đó là dấu hiệu tâm mình đã vào được Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chưa phải Sơ Thiền. Mọi người nhớ kĩ điều nay. Khi thấy thân mình như không còn nữa, thì lúc đó mình mới bắt đầu vào được Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chứ chưa vào được Sơ Thiền. Đến khi nào mình ngồi, cũng biết toàn thân như vậy, mà thấy toàn thân mình như một khối sữa ngọt ngào hay khối nước xà bông, nhớt nhớt. Thì lúc đó tâm mình đã vào được Sơ Thiền. Chỉ nhìn thân thôi, mà biết được trạng thái của tâm, không cần quan sát tâm. Nên có những phái thiền họ đi sâu vào quán thân, dần dần thành tựu cả quán thọ, quán tâm, kiểm soát được tâm, rồi từ từ có sở đắc tâm linh hết. Ở đây vì học Tứ Niệm Xứ nên chúng ta phải học hết gốc lẫn ngọn. Nhưng khi thực hành, nhiều khi chỉ cần quán thân thôi mà kiểm soát được toàn bộ tâm của mình. Chúng ta tạm nói đến đây thôi. Nên nhớ như vậy, tu thiền là phải quán tâm, kiểm soát tâm, nhưng đặt trên nền tảng hết sức quan trọng lớn lao của quán thân. Có những người dễ nhiếp tâm, họ không cần biết rõ toàn thân. Họ để tâm ở trên đầu là nhiếp được tâm, vào định luôn. Nhưng cái định đó sẽ không chuẩn, đi không xa. Còn chúng ta giữ công phu biết rõ toàn thân thì sẽ đi vào định chậm hơn, nhưng khi đã vào rồi thì chắc, chuẩn và tiến xa được tới nơi tới chốn. Mình cứ bình thản đi con đường chậm của mình. Ngày nào đó nếu có kết quả, thì kết quả của mình rất là xa. Đạo quả sẽ tiến cao hơn. Một điều nữa là khi tâm mình vào định, mình chỉ biết tâm mình vào định. Chứ đừng chen thêm điều gì khác vào. Ngày trước mình còn vọng tưởng, biết tâm mình còn vọng tưởng. Đến ngày nào đó tâm không còn vọng tưởng thì biết tâm mình thanh tịnh, không còn vọng tưởng. Đừng có thêm vào đó sự kiêu ngạo, cho rằng đấy là “Chân Tâm, Phật Tánh”. Mấy cái đó là mấy cái thêm tầm bậy vô. Trong khi Phật dạy rõ, tâm như thế nào thì biết đúng như thế, đừng nên chen thêm, chen hơn. Khi nghe một người chỉ vào trong tâm của họ rồi nói trong tâm này có Phật, nên không cần lạy Phật bên ngoài, tượng Phật chỉ là tượng sắt thép xi măng, họ tức là Phật, Phật tức là họ … thì hãy trả lời như thế này: - Khi một người nói họ bình đẳng với Phật, Phật tức là họ, họ tức là Phật, thì chúng tôi không tin họ có tâm bình đẳng. Mà tôi nghi ngờ rằng người đó đua đòi, ảo tưởng và cao vọng. Chừng nào người đó thấy họ và con chó ghẻ ngoài đường bằng nhau, thì tôi tin người đó có tâm bình đẳng. Mình phải chỉnh người ta liền để người ta thoát được tâm kiêu mạn nguy hiểm. Và chính bản thân mình cũng phải ghi nhớ như vậy. Có những trường hợp tâm mình xuất hiện sự tự tại. Tâm mình thanh tịnh, đối với mọi việc trên đời mình bình thản không dính mắc. Chuyện vui buồn tới mình không còn để tâm. Tâm bắt đầu tự tại. Thì phải nhớ là đừng có thêm. Đừng có tự nghĩ rằng “à, mình đã được giải thoát!”. Hôm trước chúng ta có nói, người tu hay đi tìm sự tự tại, thong dong, tiêu sái cho mình mà quên đi cái tình nghĩa. Người mà họ đi tìm sự tự tại, họ bỏ mặc hết tất cả, để giữ tâm bất động, không dính mắc. Họ nghĩ rằng như vậy mau giải thoát. Thì nó cũng mau hơn người khác một thời gian thật đó, nhưng tới lúc nào đó sẽ đứng lại và lui ra, lui khỏi hành trình giải thoát. Còn chúng ta, đi tìm một cuộc sống đầy tình nghĩa. Chúng ta sống tốt, đối xử tử tế với con người, tràn đầy tình thương yêu với con người, sống có tình nghĩa, song song với việc tu tập cho tâm hồn mình thanh tịnh, an định. Mình sẽ đi chậm hơn người ta. Nhưng đến khi có kết quả thì sẽ là tột đỉnh. Còn những người chỉ đi tìm sự tự tại sẽ mau được sự tự tại, mau được định. Nhưng sẽ bị giới hạn, thậm chí là đổ vỡ. Chính vì chậm, chắc, toàn diện, nên con đường này sẽ giúp chúng ta đi mãi cho đến vô biên, tuyệt đối. Rồi, có những lúc tâm mình bỗng trở nên sáng suốt. Tự nhiên mình trở nên “lanh” lắm, “sáng ý” lắm. Người ta nhúc nhích một chút thôi mình cũng biết người ta là người như thế nào. Người ta nói một câu là mình biết rõ cái sai cái đúng trong câu nói đó. Người ta hỏi một câu mình có thể đáp một trăm câu. Nghĩa là trong tâm mình tràn đầy trí tuệ, sự sáng tạo, sự nhận định, sự phán xét. Nhưng! Phải hiểu rằng TÀ KIẾN CHƯA HẾT. Vì chưa thành Phật nên vẫn còn tà kiến. Nói điều này không phải chúng ta chê tiền nhân, mà sự thật như Đức Phật nói những quả vị Thánh từ A Na Hàm trở xuống, vẫn còn tà kiến. Chúng ta kính trọng các vị Thánh từ A Na Hàm trở xuống thật, vì các vị vượt hơn ta rất rất nhiều, nhưng so với Phật, thì các vị ấy còn thua xa. Bản thân mình có vậy, dù khi lắng tâm an định, mình có phát sinh trí tuệ như thế nào đi nữa, vẫn phải biết rằng mình chưa thấu suốt hết mọi vấn đề, tuy mình có “lanh”, có “sáng ý” đó. Vẫn phải giữ sự khiêm hạ, đừng bao giờ chủ quan cho rằng mình đã đúng hoàn toàn. Được như vậy mới có thể tiến xa. Rồi có khi mình an định, thấy tâm mình trải rộng cho đến bao la vô tận. Thường lúc đó, mình sẽ có ý nghĩ “tâm mình đã hoà đồng cùng vũ trụ vạn hữu”. Suy nghĩ đó là sai lầm. Vì dù tâm mình có phủ rộng cùng khắp vô tận, NGÃ CHẤP VẪN CHƯA HẾT. Lúc đó mình vẫn chưa sạch được chấp ngã. Đây là chỗ người tu thiền hết sức cẩn thận. Phải tự nhắc mình bản ngã vẫn còn nguyên! Ở trên chúng ta vừa nói qua những kết quả của giai đoạn quán tâm theo Tứ Niệm Xứ. Đối với những kết quả này, chúng ta nhớ nó như thế nào thì biết đúng như thế đó, đừng thêm quan điểm minh hoạ của mình vào rồi sinh tâm kiêu mạn làm đổ vỡ hết. Mình phải luôn giữ, kềm không cho tâm mình khởi lên sự tự hào kiêu mạn, để con đường mình đi là đúng, là chắc. Trong cái biết về tâm này, chúng ta nhớ thêm một điều nữa. Là khi công phu thiền định mà tiến bộ thì vọng tưởng mình bớt đi. Đời sống mình đơn giản đi. Nhưng cái Biết của mình thì nó sắc bén và đa dạng ra. Cùng lúc nó biết nhiều cái. Vừa giữ được tư thế của thân mềm mại bất động, vừa biết thân này hư ảo vô thường, vừa biết được hơi thở nơi thân, vừa biết được những tâm niệm xuất hiện nơi thân này đồng thời người đối diện nói, mình cũng hiểu được tâm họ luôn. Cái Biết tăng lên rất nhiều, mà tâm thì không vọng tưởng. Thì con đường mình đi là đúng. Khi vọng tưởng mình nhiều, đời sống mình còn phức tạp thì cái Biết của mình tự nhiên bị gò bó, mình biết ít lắm. Trích đoạn gõ lại từ bài giảng “Kinh Tứ Niệm Xứ - Quán tâm” trong bộ Giảng kinh Nikaya của Thượng Toạ Thích Chân Quang, thời điểm: 01:12:59 cho đến hết. Xin nghe link đầy đủ trong phần bình luận. Nguồn: Huynh Tiến Dũng Người đã đến với niềm vui bất tận Chúng con nguyện hiến dâng cả cuộc đời Đem tình thương mang rãi khắp muôn nơi Bởi chánh Pháp thiêng liêng cao vời vợi! Đời ngắn ngủi ôi phận người rong ruổi Tháng ngày qua và tuổi lớn theo dần Chưa một lần ngộ Pháp gặp Thánh Nhân Dù bể khổ trăm lần chưa lối thoát. Hôm nay con đã hữu duyên tròn vẹn Gặp được Người như thề nguyện kiếp nào Xin lễ Người với trọn niềm ước ao! Vô lượng kiếp không đời nào thoái chuyển. Người giúp con vượt dòng đời vạn biến Lý vô thường chánh Kiến chẳng lìa xa Tôn kính Phật, kính Pháp, Nhân hiền hòa Thương giúp người xem ta như cát bụi... Đạo lý Người khắp mười phương nghìn cỏi Như thắm từng con suối đến cành hoa Tưới mát trong khắp cả dãi thiên hà Cả vũ trụ bao la Người vẫn đến! _()_Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật_()_ Nguồn ảnh Sư Huynh Thiện Thanh Phước https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=829980687176243&id=100004929576260 https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=271385680040764&id=255090418336957 BỨC TÂM THƯ... Nếu chúng ta thật sự xem Phật Pháp là hơi thở, là dòng máu, là phân nửa cuộc đời ta, thì lá thư này tôi viết, chỉ dành cho những con người có được tâm trạng đó, tâm trạng như tôi và nhiều Phật tử khác. Càng yêu Phật Pháp, chúng ta càng yêu một cuộc sống hướng thượng, một cuộc sống mà ta đặt từng bước chân để đi đến một bậc Thánh cao siêu phi phàm. Hiểu Phật Pháp, chúng ta không bao giờ cho phép chính mình sống một cuộc đời tầm thường như trước. Vì yêu đạo lý, yêu một cuộc sống thánh thiện, cho nên chúng ta càng biết nâng niu và trân quý những bậc chân sư đã dẫn đường chỉ lối cho ta trong cuộc đời đen tối và tội lỗi này. Phật là một bậc Thánh siêu tuyệt, lời dạy của Ngài là chân lý nghìn đời bất biến, song, chúng ta cần có vị thầy, đã học được lời dạy đó, và dạy lại chúng ta một cách phù hợp, gần gũi. Nhưng trải qua hơn 2000 năm, lời dạy của Phật đã bị bóp méo, thậm chí bị hiểu thành một cách sai lệch. Vì vậy, có một bậc CHÂN SƯ, một bậc thầy dạy cho ta những đạo lý đúng hoặc gần đúng với Phật nhất là một hạnh phúc không có gì bằng, là một niềm lợi lạc không còn có gì hơn. Bậc chân sư trong đạo Phật, theo tôi, là một người phải dạy tôi đúng với Tứ Thánh Đế, một bản tuyên ngôn, một yếu chỉ của toàn bộ Đạo Phật. Trong Tứ Diệu Đế, tôi hiểu rằng, cuộc đời này là vô thường và đau khổ, nguyên nhân của mọi khổ đau là do ích kỷ, ái luyến, vô minh bản ngã thẩm sâu. Hiểu điều đó, tôi toàn tâm toàn ý hướng về cứu cánh tối thượng của đạo Phật là Niết Bàn Giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Với mục đích cao đẹp đó, tôi cần có một con đường để đi mà không sợ sai lầm, đó là Bát Chính Đạo. Trong Bát Chính Đạo, có chính kiến là học được những đạo lý chân chính, hiểu được những điều chân chính. Kế đó, tôi thực hành vào thực tiễn để lời nói tôi tốt đẹp, hành động tôi tốt đẹp, cuộc sống tôi tốt đẹp và thật sự đạo đức, lợi ích cho con người và xã hội. Nhân nào quả nấy, khi tôi cho hạnh phúc, an vui tôi sẽ nhận lại được hạnh phúc, an vui. Song, tôi biết hướng tâm sử dụng những công đức mà tôi đã làm dồn vào con đường tâm linh tu tập Giải Thoát, hết sức tinh tấn để đạt đến Chánh Niệm tỉnh giác và đi qua Tứ Thánh Định cao siêu mà Phật đã dạy bằng con đường Thiền Định Tứ Niệm Xứ, có 16 hơi thở để nhiếp tâm vào an định. Trong đó tôi đi từ Điều Thân, đến điều tức (biết rõ hơi thở mà không điều khiển) đến điều tâm. Trên con đường Thiền Định đó, mục tiêu diệt trừ bản ngã là không đổi và xuyên suốt trong đời đời kiếp kiếp. Nhưng, tôi cũng biết rằng một quả vị tuyệt đối không bao giờ được đo đếm bằng một quãng thời gian tương đối. Cho nên, tôi đi con đường của Phật và Bồ tát đã đi, tinh tấn, phụng sự khôn cùng nhưng không tham mau, không tham chứng. Tôi cũng hiểu rằng, vũ trụ này có Luật Nhân Quả công bằng, muốn có hạnh phúc tôi phải cho những người khác hạnh phúc, vậy, Niết Bàn là nguồn hạnh phúc tuyệt đối, vì thế, cái nhân mà tôi gieo cũng phải vô hạn. Hiểu thế, bên cạnh việc tinh tấn tu hành, tôi phải đến với cuộc đời bằng những tâm niệm thương yêu, khiêm hạ, nhẫn nhục, dấn thân đến khôn cùng, để phụng sự, giúp đỡ cho tất cả mọi loài không mòn mỏi. Và trước hết là trong phạm vi hàng xóm tôi, thành phố tôi và đất nước tôi, sau đó là pháp giới chúng sinh bao la trong nhiều đời kiếp sau. Và đó là những điều mà thầy bổn sư của tôi, TT. Thích Chân Quang, đã dạy như thế, và tôi tin, con đường đó không thể sai lầm. Một con đường công bằng, phù hợp với lương tri sẵn có của tất cả mọi người, một con đường dẫn đến một Đạo Phật tích cực, siêng năng dấn thân nhưng cũng hết mực tinh tấn nhiếp tâm tu hành tâm linh như Phật đã dạy. Và tôi tin, tôi tin bằng hết con tim và khối óc nhỏ bé của tôi, tôi cảm nhận được đó là chân lý không thể sai lầm. Nhưng, cũng còn một chân lý mà Phật đã dạy từ nghìn xưa, “ Những người hay khuyên răn dạy dỗ, can ngăn tội lỗi của kẻ khác, được người lành kính yêu bao nhiêu thì bị người dữ ghét bỏ bấy nhiêu”. Lời dạy đó, qua muôn đời, chưa hề sai lầm và lạc hậu. Chính Đức Phật là một bậc Thánh vĩ đại, là vua của các Pháp, Ngài còn bị rất nhiều thế lực chống đối kịch liệt. Và thầy Chân Quang cũng thế. Tôi không dám so sánh giữa thầy và Đức Phật, nhưng cả 2 con người đó cùng đi trên con đường răn dạy chúng sinh, tuyên ngôn chân lý cao thượng, thì sẽ được rất nhiều người lành ủng hộ tán thán, còn những kẻ bất thiện thì trong lòng khó chịu, ganh ghét. Vì ánh sáng đến thì bóng tôi phải xua đi, khi cái tốt tràn lan thì cái xấu không còn cơ hội tác quái. Đó là một “answer” tuyệt vời nhất trong mọi thời đại và chính đức Phật đã trả lời tự nghìn xưa. Ngày nay, “người dữ” mà Phật đề cập không đơn thuần chỉ là những con người ngang bướng, cứng đầu, cố chấp nữa, mà “người dữ” ở đây mang một tầng nghĩa kinh khiếp hơn. Đó là những con người âm mưu những tham vọng tột cùng về chính trị, tôn giáo và họ sẵn sàng bất chấp mọi thủ đoạn, âm mưu xấu xa, đê tiện tột cùng để hiện thực hóa âm mưu của mình. Và một trong những con đường để “hiện thức hóa” ước mơ đó , trước tiên là tiêu diệt NGƯỜI TỐT. Còn người tốt, họ sẽ còn kêu gọi những người có lương tri chống lại những ý đồ đen tối. Và muốn làm được điều đó, họ không thể trực tiếp cầm súng giết hại. Cho nên trước hết, họ phải phá tan những uy tín, ảnh hưởng của người đó trong quần chúng bằng nhiều cách như “nói xấu, rỉ tai, chửi mắng, phản đối” cho đến “mua chuộc, hăm dọa”. Cho đến khi “cuộc thương lượng” của họ thật sự thành công thì người tốt đó bị tất cả khinh chê, bỏ mặt, quay lưng. Họ sẽ tiến đến bước thứ 2 là TIÊU DIỆT, tiêu diệt mà không sợ ai lên án, mà không sợ ai tố cáo. Vì vậy, có 2 bước mà một kẻ tình báo chính trị, tôn giáo cho thế lực xấu xa sẽ làm. Và thầy Chân Quang cũng không ngoại lệ. Bọn chúng cũng đang thực hiện những thủ đoạn, âm mưu hèn hạ và dơ bẩn đó. Và chỉ những người thật sự cảm nhận rằng, Phật Pháp là hơi thở, là giọt máu chảy trong tim họ, họ mới cảm thấy đau nhói, họ mới cảm thấy xót xa và họ mới cảm thấy mình phải có trách nhiệm gì đó. Tôi cũng là một người học sinh bình thường, tầm thường, cũng còn đầy đủ tham sân si, xấu xa, thấp bé, ích kỷ, hơn thua, vô trách nhiệm. Nhưng rồi, một ngày kia, tận sâu thẳm trong trái tim tôi đã biết hướng về cái thiện, biết hướng về chân lý mà Phật đã dạy. Tôi đã biết sống thương yêu cha mẹ, anh em, hàng xóm, bạn bè. Tôi đã biết nung nấu trong mình tình yêu đất nước, tình yêu chân lý. Tôi đã biết sống có ý nghĩa trong từng phút giây mình còn được thở, tôi biết mình phải cống hiến phụng sự thật nhiều cho cuộc đời, cho nhân loại. Và người đã dạy tôi, đã cho tôi, đã dẫn đường tôi là chính người Thầy đáng kính đó, chính Thầy là người đã mở cuộc đời tôi sang một trang mới, đã nâng bước tôi sang một con đường thánh thiện tươi sáng hơn. Và tôi tin, không chỉ có một mình tôi mà còn hàng triệu, hàng triệu con người cũng được thầy dìu đắt và dạy dỗ như thế. Cũng chính vì thế, vì tình thương thầy chẳng nói lên lời, vì lòng biết ơn vô tận chẳng nói thành câu, tôi nhận ra rằng mình phải làm một điều gì đó để bảo vệ thầy, bảo vệ lời dạy của thầy và còn bảo vệ cho tâm hồn của rất nhiều người còn chờ đợi thầy giáo hóa. Mà tôi mong, những ai có trái tim giống tôi cũng sẽ nghĩ điều như vậy. Và chúng ta phải làm gì? 1. Chúng ta sẽ đứng vững trước mọi lời dụ khị, cám dỗ. Lòng chúng ta sẽ bền như đá, không bao giờ xiêu lòng trước những thứ vật chất tầm thường để đánh đổi những đạo lý phi thường mà Phật dạy. Chúng ta không bao giờ ngã quỵ, không bao giờ chịu cúi đầu để đánh mất đi tình thầy trò vô giá mà ít người có được trên cuộc đời này. 2. Đặt trong trường hợp xấu nhất, chúng ta sẽ chết, nhưng chúng ta nguyện rằng, ta sẽ chết trong chân lý còn hơn sống trong sự dơ bẩn thấp hèn. 3. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải thương yêu nhau, đoàn kết với nhau để giúp chúng ta và cũng để giúp thầy cùng đi qua trong cơn sóng gió, bão táp. 4. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần tinh tấn tu hành để giữ gìn đạo lực, vun bồi giới hạnh, trí tuệ để sẽ có những quyết định thật sự sáng suốt nhằm bảo vệ Phật Pháp. 5. Chúng ta nguyện sẽ giúp người nào chưa hiểu sẽ hiểu về thầy, nguyện giúp những ai đang lung lay niềm tin hoặc bị thôn tín biết được đạo lý để sám hối và quay về nẻo thiện. Tôi mong rằng, tất cả Phật tử chúng ta, khi đã cùng lạy Phật, cùng được đi lên trong ánh sáng nhiệm mầu của Phật Pháp hãy cùng nắm tay nhau thật chặt, cùng thương yêu nhau thật bền để cùng với thầy và những đệ tử của thầy đi qua được cơn sóng gió hiểm nguy này. BA DẤU HIỆU CỦA NGƯỜI CÓ TRÍ TUỆ - Thứ nhất là đánh giá, suy luận, phán đoán được từ NHỮNG CHI TIẾT RẤT NHỎ. - Thứ hai là NHÌN THẤY NHỮNG ĐIỀU RẤT XA mà người khác chưa nhìn đến được (nhìn xa về quá khứ và nhìn xa về tương lai). - Thứ ba là NHÌN RA ĐƯỢC ĐIỀU KHUẤT KÍN mà mắt người khác không thấy nổi. 1. ĐẦU TIÊN LÀ ĐÁNH GIÁ, SUY LUẬN, PHÁN ĐOÁN TỪ NHỮNG CHI TIẾT RẤT NHỎ. Ví dụ có người đến một ngôi nhà nhìn thấy trong nhà chỉ có một thùng rác duy nhất, rác không được phân loại để tái chế và cũng chỉ có một nhà vệ sinh, lại không thơm, không sạch thì người đó biết rằng gia đình kia có mức độ văn minh thấp. Rồi khi nghe những người trong gia đình nói chuyện với nhau bằng những câu thô bỉ, họ đánh giá gia đình đó kém văn hóa. Rồi cách người khác dọn mâm cơm lên, hay thái độ, cử chỉ khi tặng một món quà… đối với họ đều là dấu hiệu gì đó tương đối lớn để nhận định cả. Do đó, ta nói người thông minh họ để ý đến những chi tiết rất nhỏ là vậy. Mặt khác, chỉ qua một ánh mắt rất nhỏ, họ có thể đọc được cả nội tâm của người khác. Thật ra, tất cả chúng ta đều sống theo khuynh hướng “Tốt khoe xấu che”, ta luôn bày tỏ thái độ tử tế lịch sự với mọi người, và kiềm giữ lại khuynh hướng hung dữ, tham lam, ích kỷ, nhỏ nhen. Chỉ những ai thật lòng tu dưỡng lâu năm thì thái độ bày tỏ bên ngoài với bụng dạ bên trong mới thu ngắn khoảng cách dần. Nhưng người chân tu như vậy thì thật là ít ỏi giữa thế gian này. Với người có trí tuệ, họ có thể đọc được nội tâm của người khác qua ánh mắt, dù cho nội tâm đó có khéo được che đậy bằng nụ cười chăng nữa. Trên cuộc đời này có ba hạng người cười nhiều, thứ nhất là người không sâu sắc; thứ hai là hạng người hiểm ác cười để che đậy; thứ ba là bậc Thánh cười độ lượng bao dung, cười như ôm cả đất trời, mà nụ cười như vậy thì thật là hiếm có. Và người có trí tuệ thì chưa cần nhìn người khác cười, chỉ cần nhìn vào ánh mắt thôi là họ ít nhiều biết được bản chất tâm hồn của người đối diện. 2. THỨ HAI LÀ NHÌN THẤY NHỮNG ĐIỀU RẤT XA MÀ NGƯỜI KHÁC CHƯA NHÌN ĐẾN ĐƯỢC (NHÌN XA VỀ QUÁ KHỨ VÀ NHÌN XA VỀ TƯƠNG LAI). Ví dụ khi nghe tin ông già 70 tuổi xâm hại đứa bé 8 tuổi, nếu ai chỉ mở miệng mắng cho hả giận thì người ấy chưa có trí tuệ. Người có trí tuệ sẽ nhìn ngược lại quá khứ xem ông đã gây những nhân gì mà hiện tại mắc một tội lỗi tày trời như vậy, tức để cho cái muốn bậy bạ khởi lên trong tâm, không kiềm chế được. Bình thường trong đời ai cũng có những cái muốn thúc đẩy mình làm chuyện này chuyện kia, và chúng ta thường cân nhắc để quyết định làm hay không. Nhưng có những người khi cái muốn bậy bạ khởi lên, họ không kiềm chế được mà nhắm mắt làm theo, lý do là vì sao? Vì từ bé đến lớn họ thường xúc phạm bậc Thánh, thường châm biếm bậc đáng kính, thường chê bai nói xấu mọi người. Chỉ vậy thôi mà cái phước bị tổn sạch, cho đến cuối đời khi cái muốn xấu ác khởi lên đã thúc đẩy họ làm chuyện bậy – đó chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước tội lỗi mà họ đã tích lũy cả đời. Họ mất hết danh dự, rơi vào vòng lao lý rồi khi chết sẽ rơi luôn xuống địa ngục. Thật ra mỗi ngày hầu hết chúng ta đều tích lũy mỗi giọt tội mà không hay. Ta tích lũy chỉ bằng ý nghĩ của mình, ví dụ ta nghĩ sai về con người hay suy luận bậy về đạo lý, thì sẽ có ngày giọt nước cuối cùng làm tràn ly. Do đó hãy hết sức cẩn thận với từng ý nghĩ của mình. Đó là người có trí tuệ biết nhìn ngược lại quá khứ để thấy nguyên nhân sâu xa của rất nhiều điều trên đời là vậy. Rồi từ cái thấy đó, họ biết đề phòng rất xa cho tương lai. Ví dụ trong một đất nước được cho là bình yên thế này, họ vẫn biết rằng mỗi ngày nếu người dân cứ gây nghiệp bất an từng chút thì sẽ có ngày “giọt nước tràn ly”, là ngày mà chuyện bất an (như thiên tai, bệnh dịch, chiến tranh) sẽ đến. Cái nghiệp bất an đó đến từ đâu? TỪ MỖI MIẾNG THỊT, MỖI LÁT CÁ MÀ TA ĂN HÀNG NGÀY. Thấy ngày ngày mỗi người chỉ ăn mặn một chút, nhưng sẽ có ngày CẢ NGƯỜI BÁN, NGƯỜI MUA, VÀ NGƯỜI ĂN ĐỀU PHẢI CHIA NHAU TRẢ NGHIỆP, TRẢ LẠI SỰ ĐAU ĐỚN CỦA NHỮNG CON VẬT BỊ GIẾT HẠI. Đó là ngày mà sự bất an ập đến trên phạm vi rất rộng. Thế giới ngày nay cứ bất ổn, chiến tranh, bệnh tật, ly tán, có những phe phái xung đột liên miên vì sắc tộc, tôn giáo… nguyên nhân sâu xa trong quá khứ là từ cái miệng (việc ăn mặn của chúng ta). Nên dù đang sống trong ngôi làng, một đất nước bình yên thì ta vẫn phải đề phòng có một ngày sự bất an đến, ĐỀ PHÒNG BẰNG CÁCH ĂN CHAY NGAY TỪ BÂY GIỜ. Hoặc nhìn về tương lai, người có trí tuệ thấy rằng, nếu RỪNG BIẾN MẤT thì sự sống trên hành tinh này cũng bị tận diệt, mỗi người cưa một cái cây là góp phần đẩy thế giới vào chỗ tận thế. Vì ý thức điều đó mà từ bây giờ họ lo trồng cây chung quanh nhà mình, tạo ra từng mảng xanh để góp phần gìn giữ sự sống cho trái đất. Người có trí cũng biết rằng việc THỌ ƠN, NHẬN TIỀN BẠC CỦA NGƯỜI KHÁC LÀ MỘT MÓN NỢ, mà khi đã mắc nợ rồi thì ta bị lệ thuộc, ta phải nghe lời, làm theo sự sai bảo của người đã ban phát ân nghĩa cho mình. Nếu chẳng may đó là kẻ xấu thì thật là thê thảm, có người vì món nợ trong kiếp quá khứ mà kiếp này phải nghe lời người xấu để cướp của, giết người. Do đó người có trí tuệ rất CẨN THẬN DÈ DẶT KHI THỌ ÂN AI, vì họ biết cân nhắc đến hậu quả khôn lường về sau. HOẶC KHI THẤY TÂM MÌNH KHÓ CHỊU TRƯỚC SỰ THÀNH CÔNG CỦA NGƯỜI KHÁC, NGƯỜI CÓ TRÍ BIẾT NGAY MÌNH ĐANG GIEO CÁI NHÂN ĐỂ MƯỜI KIẾP SAU MÌNH KHÔNG CÒN TÀI NĂNG NỮA. Tóm lại, người có trí tuệ trên đời là người nhìn rất xa ngược về quá khứ, và nhìn rất xa đến tương lai. 3 – THỨ BA LÀ NHÌN RA ĐƯỢC ĐIỀU KHUẤT KÍN MÀ MẮT NGƯỜI KHÁC KHÔNG THẤY NỔI: Thử hỏi, điều gì mà người khác không nhìn thấy? Rất nhiều, chẳng hạn là NỘI TÂM CON NGƯỜI, hay những ÂM MƯU CỦA NHỮNG TỔ CHỨC, THẾ LỰC NGẦM. Hiện nay có những tổ chức chính trị đội lốt tôn giáo thường cho người len lỏi vào những Pháp hội đông đúc để tung tin đồn, ví dụ họ ca ngợi về phép lạ phi thường của một đạo sư nào đó do họ dựng lên, rồi lôi kéo quần chúng. Người có trí khi nghe những tin đồn như thế thì biết ngay đó không phải là chuyện đơn giản, mà ẩn chứa phía sau là âm mưu của cả một tổ chức, một đường dây lớn đang ngấm ngầm phá hoại Phật pháp. Hoặc có những người ca ngợi một pháp tu mà không cần Phật, không cần Pháp, không cần Tăng, không cần học kinh, không cần tu nhiều, chỉ cần niệm một câu bốn chữ thôi là được siêu thoát. Người không có trí nghe những điều như vậy thấy vui vui, hay hay, còn người có trí tuệ thì lập tức cảnh giác ngay, BIẾT RẰNG ĐẰNG SAU ĐÓ CÓ THỂ LÀ MỘT ÂM MƯU CỰC KÌ LỚN NHẰM PHÁ TAN ĐẠO PHẬT, VÌ PHỦ NHẬN LUÔN BA NGÔI PHẬT – PHÁP – TĂNG, chỉ khuyến khích người tín đồ tụng một câu bốn chữ nào đó để được siêu thoát. ĐÓ LÀ CHUYỆN PHÁ HOẠI PHẬT PHÁP CỰC KÌ TRẦM TRỌNG. Hoặc hiện nay có các tổ chức chính trị vin vào những tai nạn, sự cố rồi ĐỔ LỖI CHO NHÀ NƯỚC, họ xuyên tạc, khếch đại nhiều sự việc lên cho trầm trọng để người dân bất mãn, có ác cảm với chính quyền. Cho tới ngày toàn dân đã chán ghét nhà nước rồi họ mới tổ chức nổi loạn. Tóm lại, khi nghe những câu chuyện, những tin đồn có vẻ bâng quơ, người có trí tuệ luôn cảnh giác vì họ biết rằng KHUẤT PHÍA SAU ĐÓ CÓ THỂ LÀ CẢ MỘT ÂM MƯU HIỂM ĐỘC. Người có trí cũng nhìn được những điều quan trọng sẽ đến PHÍA SAU LỜI NÓI CỦA MỌI NGƯỜI. Ví dụ có những tài xế hay buộc miệng mắng những người chạy xe máy đánh võng trước xe mình: “Tao tông chết mày bây giờ”, người có trí nghe vậy biết rằng một cái nhân đã được gieo xuống, sau lời nói đó là một tai nạn đang đợi chờ, sẽ có ngày người tài xế gây cái nghiệp tông chết người thật sự. Ngoài ra, người có trí cũng đánh giá được NHÂN QUẢ CỦA TỪNG VIỆC LÀM NHỎ NHẶT. Ví dụ có người phật tử khi vào nhà vệ sinh trong chùa thì thấy mẩu tàn thuốc bị ai vứt lại trên sàn, người này mới nghĩ rằng tuy mình không phải là người đã vứt nhưng nếu mình không dọn thì người vào sau sẽ khó chịu vì cái dơ, cái hôi, như vậy mình cũng có tội. Họ tự nhận trách nhiệm về mình nên nán lại chùi dọn cho sạch sẽ rồi mới đi dùng cơm. Đây là việc bình thường, nhưng người có trí thấy biết rằng phía sau đó là chuyện vô cùng lớn: người phật tử kia chắc chắn phải ở địa vị tôn quý trong cõi người hay cõi trời, bởi tinh thần trách nhiệm của họ quá cao. Tóm lại, người có trí tuệ thì có ba cái nhìn: - một là nhìn được những CHI TIẾT RẤT NHỎ; - hai là nhìn RẤT XA NGƯỢC VÀO QUÁ KHỨ VÀ VƯỢT ĐẾN TƯƠNG LAI; - ba là NHÌN ĐƯỢC CẢ NHỮNG ĐIỀU KHUẤT KÍN KHÔNG AI THẤY. VÀ BA TÍNH CHẤT NÀY ĐỀU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬT NHÂN QUẢ CẢ. Nên ngay từ buổi đầu đến với Phật pháp, chúng ta được học về một đạo lý tưởng như đơn giản, kỳ thực nó làm cho trí tuệ ta lớn dần, đưa ta bước lên một đẳng cấp vượt khỏi loài người – đó là LUẬT NHÂN QUẢ. Có một điều đặc biệt là bằng trí tuệ hiểu sâu về nhân quả, ta phải nhìn tới cả trăm kiếp sau của mình chứ không phải một vài kiếp, tức là ta sẽ phát những lời đại nguyện cho cả trăm kiếp sau (những lời đại nguyện thì phải trải qua thời gian rất lâu xa mới thành tựu được). Trong quá khứ, vào thời Đức Phật Ca Diếp đã có hai vị phát nguyện sẽ trở thành người thống lãnh Tăng đoàn cho một Đức Phật để hỗ trợ Phật giáo hóa chúng sinh. Hai vị ấy chính là tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Mãi đến đời Đức Phật Thích Ca thì nhân duyên mới thành tựu, hai vị được Phật giao cho quyền thống lãnh Tăng đoàn. Mà thời gian từ đời Đức Phật này đến đời Đức Phật kia là vô cùng lâu xa. Như vậy, phải rất lâu sau lời đại nguyện của hai vị mới thành hiện thực. Chúng ta cũng vậy, nếu ta phát những lời đại nguyện thì cũng phải hiểu rằng lời nguyện đó sẽ chưa thành ở kiếp này hay kiếp sau, mà có khi phải qua đến ba mươi, năm mươi, cả trăm kiếp sau. Ví dụ có người nguyện rằng sau này mình sẽ làm vua để xây dựng một đất nước tràn ngập Phật pháp. Nếu người đó đủ phước thì ba kiếp sau, còn không đủ phước thì ba mươi, có khi phải đến ba trăm kiếp sau mới thành tựu, nhưng miễn là lời nguyện được phát nguyện long trọng, nghiêm trang trước Phật đài thì sẽ có ngày thành hiện thực. Hoặc có người phát nguyện trở thành bậc xuất gia đắc đạo để đi khắp nơi thuyết pháp giáo hóa độ sinh. Thật ra, để được xuất gia đã khó, mà để thuyết pháp hay lại càng khó hơn, người thuyết pháp khiến thính chúng động lòng, cả chư Thiên cũng động lòng thì trên đời này không có nhiều. Nên lời nguyện trên có khi mười kiếp, có khi mười nghìn kiếp mới thành, nhưng đã phát nguyện rồi thì cái nhân quả của ta đã định hướng về đó, còn lâu hay mau là do sự dụng công của mình. HIỂU ĐIỀU NÀY RỒI TA SẮP ĐẶT MỌI ĐIỀU CHO VÔ LƯỢNG KIẾP SAU CỦA MÌNH. Ta vừa tinh tấn tu hành, vừa làm công đức, vừa phát nguyện, và lường trước con đường đi lâu xa mà mình phải đi, phải trải qua bao nhiêu kiếp sau. Đó là trí tuệ nhìn xa đến tương lai. Cũng nhờ cái trí tuệ nhìn xa vào tương lai này mà trong việc giáo hóa độ sinh, có những bậc Thầy đã nhìn ra căn cơ của từng người rồi khéo léo dẫn dắt cho người đó thực hiện những công hạnh nào, gieo những nhân lành gì để người đó mau trở thành bậc Thầy mà nối tiếp con đường hóa độ chúng sinh. Bậc Thầy cũng dồn người đó vào cực khổ để thời gian rút ngắn lại, thay vì 100 kiếp thì mới 5 kiếp sau đã thành tựu được đại nghiệp Phật pháp. Đó là lòng từ bi của các vị với đệ tử, các vị nghiêm khắc buộc đệ tử phải rất vất vả tạo nhiều công đức, phải rất tinh tấn tọa thiền… làm thời gian thành tựu đạo nghiệp rút ngắn lại. Chúng ta hay gọi đó là bày phương tiện để giáo hóa. LẠI NỮA, SỰ THẬT NHIỀU KHI LÀ ĐIỀU KHUẤT SAU MÀ MẮT TA NHÌN KHÔNG THẤY, TAY TA CẦM KHÔNG ĐẾN. Người có trí là người nhìn ra điều này. Ngày xưa sau khi tìm ra được bộ xương người xưa nhất thế giới nằm ở Châu Phi, các nhà nhân chủng học, nhà sinh vật học, nhà khoa học bèn kết luận rằng: nguồn gốc tổ tiên loài người ở Châu Phi. Đây là kết luận ngây thơ và vội vã. Ta đặt vấn đề, nếu có những bộ xương người còn xưa hơn nữa nằm rải rác ở đâu đó trên thế giới, nhưng vì quá lâu nên đã bị mục mất rồi thì sao? Chỉ vì tìm được miếng xương còn tồn tại xưa nhất ở Châu Phi mà bèn kết luận là nguồn gốc loài người ở Châu Phi – kết luận đó có logic, có khoa học, có thông minh không? Không. Vì thế trên đời có những điều mắt thấy tai nghe nhưng chưa phải là sự thật. CUỐI CÙNG, CƯ XỬ CÓ TRÍ TUỆ CŨNG TỨC LÀ CÓ ĐẠO ĐỨC, NGƯỢC LẠI CƯ XỬ KHÔNG TRÍ TUỆ CŨNG LÀ KÉM ĐẠO ĐỨC. Chẳng hạn có những người hay dùng mưu mô vặt vãnh để tranh giành phần lợi về cho mình, đó là NGƯỜI KHÔNG TRÍ TUỆ MÀ CŨNG KHÔNG ĐẠO ĐỨC. Họ không biết rằng càng tranh giành THÌ ÁC NGHIỆP CÀNG CHỒNG CHẤT. Hay có những người ỷ mạnh, ỷ thế rồi cứ lấn đường chung, không ngờ sau này con cháu hư hỏng, sự nghiệp tiêu tan. Còn có người luôn nhường nhịn, nếu làm nhà thì họ cũng lui lại một, hai mét để con đường chung được rộng, mọi người đi lại cho thoải mái. Đó là người trí vì hiểu nhân quả tội phước: “Xây nhà nhường rộng lề đường Sau này con cháu thuận đường mưu sinh” CHO NÊN, TỘT ĐỈNH CỦA SỰ KHÔN NGOAN THẬT SỰ RỒI CHÍNH LÀ ĐẠO ĐỨC, còn cái khôn ngoan vặt vãnh, dở dở ương ương thì đưa người ta đến cái thủ đoạn, mưu mô thất đức. Đó là lý do mà một nhà nước khôn ngoan thì thường chọn con đường nhường nhịn, nhẫn nhục, ôn hòa với dân, dù cho nhà nước có công cụ vũ lực trong tay. Tóm lại, để có trí thì đầu tiên ta phải học. Khi đến với đạo Phật ta được học hai đạo lý vi diệu: - THỨ NHẤT LÀ LUẬT NHÂN QUẢ, - THỨ HAI LÀ MỤC TIÊU VÔ NGÃ. Đó là hai đạo lý cực kì quý giá của pháp giới vũ trụ này để mở mang trí tuệ cho chúng sinh. Mà người có trí tuệ thì phải có ba tính chất: – Nhìn được những chi tiết rất nhỏ – Nhìn rất xa ngược về quá khứ và xa đến tương lai – Nhìn được những điều khuất kín phía sau mà ít ai thấy nổi. CUỐI CÙNG, NGƯỜI CỰC KÌ KHÔN NGOAN, TRÍ TUỆ CŨNG LÀ NGƯỜI VÔ CÙNG ĐẠO ĐỨC. Trích tóm lược bài pháp “NGƯỜI CÓ TRÍ” của Sư Phụ TT. Thích Chân Quang. https://thichchanquang.com/tt-thich-chan-quang-thuyet-giang-ve-de-tai-nguoi-co-tri/ * Nguồn Đặng Huy Dũng https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=853191838188461&id=100004929576260 💬❓ HỎI ĐÁP NHÂN QUẢ - P1💬❓ 🙏🗣️1. Hỏi: Thưa Thầy, người tạo nghiệp ác sẽ lãnh quả báo ác. Do họ tạo nghiệp thì lãnh nghiệp, đúng rồi! Nhưng nghiệp của họ lại có thể làm cho người khác tạo nghiệp. Như vậy, nhân quả nằm ở chỗ nào? ⭐Đáp: Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy nghe câu chuyện: Có một gia đình bị nghiệp “Lấy cướp và giết người”, thì đúng ngày đó, tự nhiên có hai người đến gõ cửa. Người trong nhà vừa mở cửa ra, họ ùa vào bắt trói mọi người, cướp của rồi giết chết hết. Sau đó, công an phát hiện và bắn chết những tên đó. Qua câu chuyện như vậy, chúng ta thấy: - Một bên tới lúc phải trả nghiệp (gia đình bị cướp). - Một bên tới lúc tạo nghiệp (mấy tên cướp). Nếu nhìn cạn chúng ta hiểu: “Tội của người này tạo thì họ lãnh, nhưng sao bắt mấy tên cướp phải tạo nghiệp để cho người đó trả. Như vậy, nó thành ra cái tội của nó nữa”? Sự thật, chúng ta phải hiểu thế này, gia đình đó đến lúc trả quả, còn tên cướp đến lúc gieo nhân. Như vậy, việc gây nhân có ngẫu nhiên không? Không ngẫu nhiên! Mà nó do một cái nhân nào trước đó nữa, nên mới tạo thành hành động. Đó là cái nhân tư tưởng trước. Tên cướp này, trước đó đã suy nghĩ về cướp của giết người (nhân) thì tới kết quả là họ phải hành động. Đồng thời, sự sắp xếp của vũ trụ vạn hữu, của luật nhân quả, khiến cho người này phải trả quả, đúng vào thời điểm người kia tới lúc phải tạo hành động, do ý nghĩ trước kia của họ. Luật nhân quả rất logic, nó sắp xếp cho người trả quả và người gieo nhân ăn khớp lại với nhau. Và người gây nhân, không phải ngẫu nhiên mà là trước đó, họ đã gây cái nhân tư tưởng rồi. Cũng vậy, chúng ta cứ nuôi tư tưởng từ bi, bố thí thì tự nhiên sẽ có lúc làm được những điều đó. Trong nhân quả là vậy, nếu chúng ta nuôi những tư tưởng lành thì sẽ có dịp làm được những điều lành, trùng với người đang đến lúc hưởng quả. 🙏🗣️2. Hỏi: Có những trường hợp tai nạn xảy ra làm cho nhiều người thiệt mạng thì nghiệp đó được phân tích như thế nào, xin Thầy chỉ dạy. ⭐Đáp: Nhiều người bị thiệt mạng chung trong một tai nạn thì trước hết đó nghiệp chung, những người này có cái nhân gì đó khiến họ chịu chung một tai nạn. Trong trường hợp này chúng ta đừng tưởng ngày xưa họ gieo chung một cái nhân để ngày nay chịu chung một cái quả, không hẳn thế. Có khi là họ cùng gieo chung một cái nhân, có khi gieo những cái nhân ở những chỗ khác nhau nhưng cái quả giống nhau. Thì cái nhân duyên khiến đưa họ đến chung một nơi để cái quả nó xảy ra cũng giống nhau như vậy. Ví dụ một chiếc xe bị lật làm nhiều người bị thương, bị chết. Không phải ngày xưa họ gieo cùng nhân mà có người gieo nhân ở đầu này, có người gây nghiệp ác ở đầu kia nhưng cái quả giống nhau là bị lật xe nên nhân duyên đưa đẩy khiến họ đi trên cùng một chiếc xe để rồi chiếc xe đó bị lật. Mà cộng nghiệp như vậy, nó cũng báo cho một cái điềm không lành cho đất nước đó. Điềm không lành là do đạo đức tổng quát của đất nước đó yếu, thứ hai là người lãnh đạo phải xem lại đạo đức của mình. Ngày xưa, mỗi khi trong nước vùng nào có hạn hán thì ông Vua thường hay trách lỗi mình. Thường ăn chay nằm đất bảy ngày bảy đêm để sám hối và lập đàn cầu nguyện tự nhận lỗi về mình rồi cầu nguyện cho trời được mưa thuận gió hòa, đó là họ cũng hiểu nhân quả. Vì giữa người lãnh đạo đất nước với số phận của đất nước trong giai đoạn đó nó có sự liên hệ hữu cơ. Nếu người lãnh đạo đất nước làm sao cho người dân được tăng trưởng đạo đức thì đất nước đó sẽ hưng thịnh. Chứ còn không một kế hoạch hay một sách lược nào có thể thành công được nếu người dân không có đạo đức. Chúng ta hiểu rằng nhưng cái phước hay tai họa chung của đất nước nó gắn liền giữa nghiệp của người dân và đạo đức của người lãnh tụ. 🙏🗣️3. Hỏi: Theo Thầy nói, luân hồi quả báo tác động lên tất cả chúng sinh. Có những người không tin nhân quả báo ứng và những người theo đạo khác cũng không tin. Như vậy khi chết, những người nầy có bị qui luật trên chi phối hay không? ⭐Đáp: Chân lý không phụ thuộc vào niềm tin. Như nước sẽ sôi khi đun nóng lên 100 ˜C. Tin hay không tin, thì khi đun nóng ở nhiệt độ đó, nước vẫn sôi. Luật quả báo đi theo quy luật riêng của nó và tác động lên tất cả, không tùy thuộc vào tin hay không tin. Nhưng có một điều làm cho con người không tin vào quy luật trên. Ví du: Có người trong cơn túng quẫn, chợt nhớ đến một người quen biết cũ giàu có, quyền thế, nên đến cầu khẩn xin giúp cho một triệu và đã được người kia giúp. Hoặc có người đến một đền thờ nào đó, cầu xin thần linh giúp đỡ cho một việc gì thì được toại nguyện. Những người này thấy đâu cần phải tin vào luật nhân quả, đâu cần phải làm phước mà vẫn được toại nguyện. Họ đâu biết những cái được của họ ngày hôm nay cũng đều do nhân quả kiếp quá khứ tạo thành. Người nhà giàu kia giúp cho người nọ một triệu, biết đâu kiếp trước đã thọ ơn của người nọ một việc gì, đến kiếp nầy phải trả lại. Hay người mà đến vị thần linh cầu xin được toại nguyện, thì cũng do trong một kiếp nào đó, người nầy với vị thần linh kia cũng có một chút duyên lành, đến kiếp này cầu xin thì vị ấy cũng phù hộ được. Vì vậy, thoạt nhìn thì tưởng không có nhân quả, thật sự qui luật trên bí mật chi phối trong đời sống mỗi người. 🙏🗣️4. Hỏi: Bạch Thầy, thí dụ như có một người nhà giàu cho người nghèo một triệu đồng, thì trong một kiếp nào đó, người nghèo có phải trả lại số tiền đó không? ⭐Đáp: Luôn luôn phải trả, và cách trả như thế nào còn tùy theo tâm của người nghèo. Nếu người nghèo đó tâm tốt thì quý mến và nhớ ơn người giàu, và khi gặp lại ở một kiếp khác, họ vui vẻ trả quá một triệu cũ. Cứ gắn bó vay trả, trả vay trong nhiều kiếp luân hồi. Nên những người tốt gặp nhau, cứ gắn bó mãi. Trường hợp nếu người nghèo tâm xấu, luôn luôn tránh né, không muốn trả số nợ cũ, thì họ cũng bị bắt buộc phải gặp lại người giàu kia trong một kiếp nào đó, và phải trả số nợ cũ bằng cách làm nô lệ cho người giàu đó, mà qua nhiều kiếp, số nợ đó tăng lên. Lúc nhận chỉ một triệu, nhưng đến lúc trả, sẽ trả gấp mười lần hoặc hơn. 🙏🗣️5. Hỏi: Vậy thì mình không nên nhận của bất kỳ ai cho mình. ⭐Đáp: Trường hợp người cho là người tốt thì mình nhận cũng được, nếu bị ngặt nghèo quá. Còn nếu không cần số tiền đó nhưng mình nhận để sử dụng vào việc lợi ích, cũng tốt cho cả hai. Trong cuộc đời, nhìn lại mình sẽ thấy là đã nhận ân nghĩa của rất nhiều người, có những ân lớn mà mình không thể trả nổi. Vì vậy, để đền trả một phần nào cuộc đời đã cho mình, thì phải ráng nỗ lực làm nhiều việc lợi ích, việc tốt hơn nữa để phước càng sâu dầy thì những người giúp mình lúc trước cũng được hưởng chung phước với mình. Nhưng có những người mình không nên nhận bất kỳ một chút gì, đó là những người xấu, ác. Vì nếu mình thọ ơn những người nầy, thì chắc chắn một kiếp nào đó, người nầy sẽ sai mình làm việc sai trái mà mình không thể cưỡng lại được. Đây cũng là lý do một tên cướp có rất nhiều tay chân thuộc hạ, vì kiếp trước tên nầy cũng cho rất nhiều người, mặc dù biết tên nầy rất ác nhưng họ cũng cứ nhận, thì kiếp sau, bắt buộc phải trả nợ bằng cách làm tay sai cho tên cướp đó. Nguồn Chùa Phật Quang P1: https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=173044036585276&id=126292741260406 P2: https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=175615096328170&id=126292741260406 Giải đáp thắc mắc - TT. Thích Chân Quang: https://www.youtube.com/playlist?list=PLXSN_I3JZcxYT0Inkw9ijKp_66ui3_QLL ĐỈNH NÚI TUYẾT “Chưa xem Đỉnh Núi Tuyết rơi Coi như mất nửa cuộc đời qua không Ai chưa từng ngắm dòng sông Làm sao hiểu biển mênh mông dường nào Chưa từng đêm đến ngắm sao Biết gì vũ trụ thì thào yêu thương Chưa từng nhìn nắng tan sương Làm sao tắm ánh chiêu dương rực hồng Chưa từng mơ ước đại đồng Trái tim đâu mở tận cùng vô biên Hãy quỳ xuống giữa bình yên Quên đi tủi nhục muộn phiền xót xa Dâng niềm tôn kính thiết tha Nguyện đi theo mãi Phật Đà thiêng liêng.. https://www.facebook.com/groups/trangthosuphu/permalink/2021505904746422/ KHÔNG THỂ XẢY RA ĐƯỢC ! Trên đời này, trong vũ trụ này, chuyện gì cũng có thể xảy ra riêng có một chuyện thì không thể xảy ra được, đó là: CÓ MỘT AI ĐÓ HƠN PHẬT VỀ BẤT CỨ MỘT PHƯƠNG DIỆN NÀO. Trong vũ trụ này, xuyên suốt dòng thời gian vô tận của vũ trụ này, từ ngàn xưa cho đến ngàn sau, từ vô lượng kiếp trước cho đến vô lượng kiếp sau: - không ai có phước lớn hơn Phật được. - không ai có thần lực (thần túc thông) hơn Phật được. - không ai có trí tuệ hơn Phật được. - không ai thuyết Pháp hay hơn Phật được. - không ai thuyết Pháp đúng hơn Phật được. - không ai có uy đức hơn Phật được. - không ai biết tất cả mọi điều trên đời này, trong vũ trụ này chính xác hơn Phật được. - không ai có dung nhan đẹp, thanh tịnh, sáng chói, uy nghi rực rỡ... hơn Phật được. - không ai có giọng nói hay, truyền cảm, đi vào lòng người hơn Phật được. - không ai hy sinh cho chúng sinh nhiều hơn Phật được. - không ai có sức thu hút chúng sinh mạnh hơn Phật được: ngay cái nhìn đầu tiên khi gặp Phật, chúng sinh đã choáng váng và rụng rời tay chân bởi uy đức và dung mạo sáng chói của Phật . - không ai có một cái nhìn xa hơn Phật được: Phật làm một điều gì hoặc giảng một bài Pháp nào, Ngài nhìn thấu suốt cho đến vô lượng kiếp sau trong tích tắc một sát na (một giây dài hơn một sát na mấy chục ngàn lần). - ... "HƠN PHẬT ": không thể nào xảy ra được. "BẰNG PHẬT": thì có thể xảy ra và chỉ Phật bằng với Phật mà thôi; tức là mười phương ba đời Chư Phật bằng nhau. Bài viết này có 3 mục đích: - tán thán Phật, có thể chúng ta đã biết những điều này nhưng khi đọc lại chúng ta vẫn xúc động (kể cả người đang viết). - những người hiểu lầm rằng có ai đó hơn Phật thi đừng hiểu lầm nữa. - tà kiến "có ai đó hơn Phật" cần phải được chấm dứt và phải được loại bỏ ngay bằng bất cứ giá nào; nếu không thì Phật Pháp sẽ bị suy tàn (rất nhiều phái thiền có tà kiến này, phải sáng mắt ra, và tất cả những Phật tử chúng ta hãy cẩn thận khi nghe những phái thiền nói về Phật và khi nghe họ nói họ giỏi hơn Phật thì chúng ta phải chỉnh đốn lại ngay lập tức bằng bất cứ giá nào) Trần Công Tuệ. https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=2138044623095826&id=100006709264288 Vừa qua, nhân Khóa tu Thiền vào hai ngày 06 - 07/04/2019 (nhằm ngày mùng 02 - 03/03/ năm Kỷ Hợi) tại Chùa Viên Quang (xã Nam Thanh, Nam Đàn, Nghệ An), TT. Thích Chân Quang - Phó ban Kinh tế Tài chính TƯ GHPGVN đã quang lâm hướng dẫn Thiền và thuyết giảng về đề tài “THẾ GIỚI CỦA NGƯỜI CÕI ÂM”. Bài Pháp thoại đã giúp các Phật tử hiểu rõ, chính xác, đúng đắn về cõi âm để không bị rơi vào mê tín dị đoan. Từ đó, ta có sự ứng xử phù hợp, vừa giúp các vong biết tu tập để giải thoát, vừa khai thác được thế giới tâm linh để làm lợi cho chúng sinh khắp chốn. Tham dự buổi thuyết giảng có các vị lãnh đạo chính quyền các cấp tại địa phương và Tổ Điều Hành các Đạo tràng Phật Quang các tỉnh miền Bắc, cùng hơn 2.000 Phật tử xa gần. Mở đầu bài Pháp thoại, Thượng tọa khẳng định cõi âm là một điều rất trừu tượng. Có một số đối tượng đã lợi dụng điều này để thực hiện nhiều hành vi mê tín dị đoan, làm ảnh hưởng đến kinh tế, văn hóa, gây hoang mang trong xã hội, khiến lòng người mất niềm tin vào Phật Pháp. Chúng ta thấy, bên cạnh một số hành vi mê tín dị đoan ra đời trước đây như: cúng tế, lễ bái, dâng sao giải hạn, xem bói thì lại có hành vi mới xuất hiện và được coi là biến thể phù hợp với thời đại. Ví dụ có những đồ cúng khá hiện đại như hàng mã là nhà lầu, xe ô-tô, du thuyền, điện thoại, tiền đô-la,… hoặc xem bói qua internet, thậm chí có một số "thầy" còn bói qua livestream. Như vậy, rõ ràng tâm linh là một mảng quan trọng không thể thiếu trong đời sống con người cũng như an ninh quốc gia. Tuy nhiên, chúng ta gần như còn rất mơ hồ về vấn đề này. Đây chính là lý do mà Thượng tọa chọn đề tài “THẾ GIỚI CỦA NGƯỜI CÕI ÂM” để chia sẻ trong bài giảng này. Nếu không có một cái nhìn tỉnh táo, rõ ràng, chúng ta rất dễ làm sai, dẫn đến việc mất tiền bạc, danh dự, thậm chí vướng vào vòng lao lý của Pháp luật. Đi vào nội dung, Thượng tọa chỉ ra rằng thế giới tồn tại ở hai dạng vật chất. Một loại là mắt ta có thể nhìn thấy được như: bầu trời, cây cối,… Một loại là mắt ta không thể nhìn thấy được như: sóng điện thoại, linh hồn,… Nghĩa là cái nhìn của mắt ta coi vậy mà bị hạn chế rất nhiều. Một trong những cái mắt ta không thể thấy chính là cõi âm. Hiện tại có hẳn một môn học gọi là tâm linh học để nói về điều này. Để hiểu và bước được vào môn học này, đầu tiên ta phải chấp nhận tiền đề: “chết không phải là hết”. Tức là sau khi chết đi, chúng sinh vẫn tồn tại, chỉ là ở một dạng khác mà thôi. Tiền đề này ta không thể chứng minh được nhưng phải chấp nhận vì nó quá hợp lí. Ở Việt Nam, người đầu tiên dám tuyên bố tiên đề này một cách mạnh mẽ trên văn bản là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong di chúc Bác có viết: “…tôi để sẵn mấy lời này phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê Nin và các vị cách mạng đàn anh khác…”. Không chỉ Bác Hồ, thế giới cũng đã biết có sự tồn tại của cõi âm nhưng họ vẫn đang loay hoay, chưa biết cách khai thác và ứng dụng nó. Vậy nên, câu nói này của Bác đã mở ra nền tâm linh học đi trước cả thế giới cho chúng ta. Lý giải về tiên đề trên, Thượng tọa khẳng định, sau khi chết đi, chúng sinh vẫn tồn tại nhưng không phải ở dạng vật chất mà là linh hồn. Nếu khi còn sống, ta biết đến chùa nghe Pháp, ngồi thiền, làm nhiều việc phúc thiện thì sau khi chết, linh hồn ta ở đẳng cấp cao hơn, gọi là thiên thần. Ngược lại, khi còn sống mà không biết tu hành, chỉ lo hưởng thụ, khi chết, linh hồn ta ở đẳng cấp thấp, gọi là ma. Khi còn sống mà phạm tội quá nặng, sau khi chết, linh hồn của ta là tù nhân dưới địa ngục. Còn khi sống mà ngu si, ngang bướng, sau khi chết sẽ đọa súc sinh, v.v.. Quả thực, có quá nhiều con đường để ta đi sau khi chết. Nhưng đi con đường nào lại do thái độ, hành vi lúc sống của ta quyết định. Đây chính là tính chất công bằng của vũ trụ. Nói về các linh hồn, Người nhấn mạnh, sau khi chết đi, những vong không có cơm ăn, áo mặc, không có người nào yêu thương, nên họ rất thèm khát cuộc sống vật lý cũng như sự hiện diện trên đời này giống chúng ta. Chính vì cô đơn nên họ thường tập trung thành bầy đàn, gọi là “các đảng”. Nhưng dù họ có tồn tại thì chúng ta cũng không thể thấy được. Phải nói rằng, việc không nhìn thấy các vong hồn là một sự thua thiệt của con người, bởi nếu thấy họ, chúng ta sẽ biết cách hành xử hợp lý, mang lại rất nhiều lợi ích cho bản thân và xã hội. Vì không thấy họ nên chúng ta gần như không hiểu họ, không biết cách đối xử đúng đắn với họ. Thực sự, sự tồn tại của cõi âm ảnh hưởng, tác động rất lớn đến cuộc sống của chúng ta. Càng không thấy họ thì chúng ta càng phải tìm hiểu kỹ về họ để khai thác, ứng dụng làm lợi cho cuộc sống của mình. Để giúp các Phật tử hiểu rõ vấn đề này, cũng như cách ứng xử phù hợp trong từng hoàn cảnh, Thượng tọa đã chỉ ra 6 trường hợp ma xuất hiện trong cuộc sống hằng ngày của con người: Một là ma cố ý hiện hình cho con người nhìn thấy. Hai là hiện tượng bóng đè. Ba là vong tác động vào tâm lý của ta khi còn thức. Bốn là vong mách bảo cho ta điều này, điều kia trong cuộc sống. Năm là ma ở chung nhà với ta. Sáu là vong nhập vào cơ thể sống của ta. Với mỗi trường hợp, Thượng tọa đều lí giải cặn kẽ, lấy ví dụ rất thực tế, đồng thời chỉ rõ cách ứng xử phù hợp cho các Phật tử. Người nhấn mạnh rằng, dù gặp trường hợp nào, chúng ta cũng không nên sợ hãi, cũng đừng bỏ chạy bởi ma chỉ xuất hiện, gặp gỡ những người hiền lành; ở những nơi đầy khí lành. Thay vào đó, ta nên vui mừng, quay lại chuyện trò, nói những lời yêu thương, tử tế với họ. Nói về nguyên nhân xuất hiện của ma, Người khẳng định mọi việc đều do nhân quả. Có thể chúng ta mắc nợ họ; có thể do chúng ta quá dễ thương; cũng có thể do chúng ta không cúng đồ ăn cho họ,… Tuy nhiên, dù là lí do gì, thì chúng ta cũng đừng tìm cách xua đuổi họ, bởi ta đã nợ họ thì phải trả, không thể cưỡng lại nhân quả được. Thay vì tìm bùa chú, nhờ Pháp sư,… Người khuyên chúng ta nên thường xuyên đến chùa tụng kinh, lễ phật trợ duyên cho vong linh để các vong biết tu tập, dần dần thay đổi tâm tính, trở thành người bạn tốt của ta, hỗ trợ cho ta trong cuộc sống. Khi đủ phước đức, họ sẽ đầu thai và không xuất hiện cạnh ta nữa. Cái quan trọng nhất trong ứng xử với thế giới tâm linh là thái độ chứ không phải vật chất. Chỉ cần ta thành tâm, chăm chỉ tụng kinh cho họ nghe thì dần dần họ sẽ trở nên hiền hòa, hướng về Phật pháp. Từ đó, họ biết ơn ta, lúc nào cũng bảo vệ, hỗ trợ cho ta như một người bạn, âm thầm phù hộ, để ta tránh được những điều rủi ro, nhận được nhiều điều may mắn trong cuộc sống. Khi chết đi, bước vào cõi âm ta được nhiều người yêu thương, chào đón, ủng hộ. Lúc đó, ta sẽ cảm thấy ấm áp và không còn sợ hãi nữa. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nghi thức tụng niệm được tổ chức hoành tráng, tốn kém nhưng lại không đem lại kết quả gì nhiều. Nhân đây, Thượng tọa nêu rõ nguyên nhân vì sao, và gợi mở một biện pháp cần làm không chỉ ta mà cả thế giới có thể hiểu và cùng thực hành. Theo đó, Người nhấn mạnh vai trò của tiếng Anh trong thời đại hội nhập này. Đây chính là ngôn ngữ chung của thế giới, cũng sắp là ngôn ngữ thứ hai của Việt Nam. Do đó, Thượng tọa yêu cầu tất cả các Phật tử phải có ý thức tự giác trau dồi, nâng cao khả năng ngoại ngữ của bản thân. Làm sao để tự mỗi người có thể chia sẻ lời Phật dạy cho bạn bè trên khắp thế giới cùng biết. Sau cùng, Người đưa ra khái niệm, giải thích đặc điểm của địa ngục và cõi trời. Từ đó nhắc nhở mọi người phải tu tập tâm từ bi, khiêm hạ, biết tôn kính Phật và tôn trọng mọi người. Đặc biệt, phải siêng năng ngồi thiền. Có vậy, ta mới được Chư Thiên để ý, gia hộ, sau khi chết được lên cõi trời. Đây quả thực là một bài Pháp dài với rất nhiều đạo lí, khái niệm khó, đòi hỏi người nghe phải thực sự chú tâm, tu tập nghiêm túc mới có thể hiểu thấu đáo, sâu sắc được. Khi hiểu rõ những mối tương quan, tương tác giữa cõi âm và cõi dương thì không còn ai có thể hù dọa, lôi kéo, mê hoặc được ta. Tự bản thân chúng ta biết ứng xử đúng đắn với người cõi âm trong mọi trường hợp để vừa giúp đỡ họ, vừa giúp đỡ mình và làm lợi cho đất nước. Ngoài ra, bài Pháp thoại đã giáng một đòn mạnh mẽ vào các vấn nạn mê tín dị đoan, cảnh tỉnh trước những âm mưu, thủ đoạn của các cá nhân, tổ chức đang lợi dụng tâm linh nhằm thực hiện nhiều mục đích xấu, chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Đồng thời, góp phần xoa dịu, làm cho mọi người hiểu rõ hơn về tâm linh, tránh hoang mang trong dư luận, và ngày càng yêu kính Phật Pháp./. https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=575711536274842&id=255090418336957 ĐẤNG CAO QUÝ ĐẢN SINH Ngày xửa ngày xưa. Cách đây hơn 2500 năm về trước. Tại đất nước Sakya hiền hòa. Có Đức Vua Suddodhana ( Tịnh Phạn ) văn võ song toàn cùng Hoàng Hậu Maha Maya tiết hạnh uy nghi. Vua và Hoàng Hậu là 2 bậc lãnh đạo đầy nhân ái và đức độ. Chăm lo mọi điều sung túc cho nhân dân, kính trọng các Bậc Hiền Sĩ. Đất nước thuở ấy đã phát triển bền vững và hạnh phúc cũng như có tình giao hảo tốt đẹp với các quốc gia lân cận như Kosala, Magadha… Trong lịch sử ghi lại rằng, trước khi mang thai hoàng nhi 10 tháng. Hoàng Hậu Maya được Đức Vua cho giữ các giới thanh tịnh nhân dịp lễ cầu mưa. Lúc ấy thân tâm hoàng hậu an lành, đĩnh đạc như nhập vào định. Và rồi, vào đêm trăng tròn tháng 4 âm lịch. Trong khi hoàng hậu ngủ say thì mộng thấy điềm lành. Ngay lúc ấy, tại cõi trời Tusita ( Đẩu Suất ), Đại Bồ Tát Hộ Minh ( Tiền thân của Đức Phật ) sau thời gian thống lĩnh và giảng dạy cho các Chúa Trời và Chư Thiên Tử cũng như đã hoạch định một số điều cần thiết cho kiếp cuối cùng. Ngài được tất cả Thiên Nhân cung kính đản sinh vào thế giới loài người. Vì thời đã đến. Lúc ấy Đại Bồ Tát Hộ Minh ( Vessantara ) dùng đạo nhãn thanh tịnh của mình quán sát vũ trụ. Ngài quán sát 5 yếu tố: 1. Quán Sát Thời Kỳ: Ngài nhìn thấy Trái Đất nơi những chúng sinh có duyên sâu dày với mình nhiều kiếp đang đồng tái sinh về chờ đợi. Nơi thế giới ấy, tuổi thọ của loài người chỉ trong vòng 100 năm. Sẽ đúng là lúc, để giảng dạy về sự vô thường và tu tập Giác Ngộ. 2. Quán Sát Lục Địa: Ngài chọn bán đảo Ấn Độ, vì lúc ấy nền ngôn ngữ đã phát triển đủ để giáo lý của Ngài được chúng sinh hiểu và thực hành. Và nơi bán đảo Ấn Độ đã có sẳn nhiều nền triết học đa dạng, phức tạp. Khi Ngài xuất hiện, giáo pháp của Ngài sẽ là sự so sánh rất lớn với những tín điều xưa cổ. 3. Quán Sát Quốc Độ: Ngài chọn Majjhimadesa ( vùng Trung Ấn, thung lũng sông Hằng ), vì nơi ấy có nhiều đạo sĩ và minh quân xuất hiện. 4. Quán Sát Chủng Tộc: Ngài chọn dòng dõi Sakya cao quý. Với nhiều đời vua là những bậc hiền đức, tài giỏi. Với Đức Vua Cha Suddodhana lỗi lạc nhiều kiếp có nhân duyên với Ngài ở quá khứ. 5. Quán Sát Người Mẹ: Ngài chọn hoàng hậu Maha Maya như đúng lời Đại Nguyện làm mẫu thân của Đức Phật mà hoàng hậu đã phát lên vào thời các Đức Phật quá khứ. Cũng vì hoàng hậu nhiều đời là con người tiết hạnh, đức độ rạng ngời xứng đáng trở thành mắc xích nhân duyên cho Đức Phật xuất hiện. Cũng vì Ngài và hoàng hậu đã nhiều kiếp có nhân duyên. Sau khi quán xét 5 yếu tố, Ngài nhiếp tâm khởi lòng từ bi bao phủ cả trời đất, tác ý tan biến thân cõi trời vượt không thời gian nhập vào mẫu thai. Ánh sáng tràn ngập, cõi trời rung chuyển. Tất cả thiên tử chấp tay kính lễ Đại Bồ Tát giáng trần. Và cùng dõi theo chuyến hành trình vĩ đại của Ngài. Ngay lúc ấy, sâu vào trong giấc mộng nên thơ, hoàng hậu Maya mộng thấy một con voi trắng hùng dũng cuộn trong vòi là đóa hoa sen chui vào bụng mình. Khi hoàng hậu thức giấc và kể lại câu chuyện cho Đức Vua. Lập tức, Đức Vua triệu tập các vị Bà La Môn đến hoàng cung để giải điềm mộng này. Các vị đều nói rằng: Thật hoan hỷ khi Hoàng Hậu đã mang trong bụng mình một bậc siêu việt, phi thường cho nhân loại. Không khí hoàng cung, tâm của mọi người từ vua đến quan, từ cận vệ đến thần dân ai cũng an vui, hạnh phúc diệu kỳ. Từ khi mang thai Thái Tử, cả tâm của Hoàng Hậu và Đức Vua an yên thanh tịnh. Tuy Thái Tử chưa xuất thai nhưng uy lực và lòng từ đã bao phủ tất cả. Hoàng Hậu mang thai chính là sự Sinh Sản Đơn Tính. Nhưng Thái Tử xuất thai lại là sự Hóa Sinh. Theo truyền thống xưa, người phụ nữ khi mang thai sẽ trở về quê mẹ để hạ sinh. Hoàng hậu Maya cũng vậy, khi gần mãn thai kỳ. Đoàn kiệu xe đưa Hoàng Hậu xuất phát từ kinh thành Kapilavatthu trở về Devadaha thuộc xứ Koliya để tiện chào đón hoàng nhi. Đi giữa đoạn đường xa xôi, thì cả đoàn người đi ngang qua rừng Lumbini ( Lâm Tỳ Ni ) thơ mộng đầy ấp cây cối và muôn thú thân thương. Cảnh như vườn địa đàng tuyệt đẹp với những hồ nước, với hoa trái nở rộ. Bỗng một mùi hương thơm ngạt ngào từ đâu lan tỏa khắp không gian, khiến cả đoàn người thắc mắc. Hoàng Hậu tò mò bước xuống kiệu đi tìm. Đi một lát, Người phát hiện cội cây Vô Ưu đẹp rực rỡ như đã mọc từ bao giờ. Một loài cây lạ lùng chưa bao giờ ai nhìn thấy. Hoa nở rợp từ gốc đến ngọn và rụng xuống thành cả một thảm hoa tuyệt đẹp, ngạt ngào. Hoàng hậu bước đến gần và giơ tay tính hái một nhành hoa. Lúc đó, đại địa chấn động, nhạc trời vang lên huy hoàng, ánh sáng chùm chiếu cả khu rừng, hào quang soi vô biên thế giới, muôn hoa lá đua nhau khoe sắc, chim hót líu lo, chư Thiên tử hiện ra đầy trời hoan hỷ reo ca, muôn thú cúi đầu. Mọi người sững sờ chết lặng người chỉ biết nhìn cảnh tượng kỳ diệu. Bỗng nơi hông phải của Hoàng Hậu một luồng sáng chói chang xuất hiện. Hoàng Nhi bệ vệ bước ra đi bảy bước trên thảm hoa, tương truyền 7 đóa hoa sen nở ra đỡ bước chân Người. Rồi Hoàng Nhi giơ một ngón tay lên trời, chỉ một ngón tay xuống đất cất lên những tiếng mầu nhiệm, Rồng thần trên trời phun nước tắm mát cho Hoàng Nhi. Mọi thứ đều sạch sẽ, đẹp đẽ và thơm mát. Hoàng Nhi nằm xuống như một đứa trẻ trước sự kinh ngạc của mọi người. Cảnh tượng dần trở lại như cũ. Thế là đoàn người được lệnh quay lại Hoàng Cung. Đức Vua nhìn thấy Thái Tử vừa chào đời tướng mạo phi thường, sáng rỡ lòng cực kỳ xúc động. Ba ngày sau, nhà tiên tri Asita Kaladevala ( A Tư Đà ) thấy các điềm lạ trên cõi trời, biết là có thánh nhân giáng trần. Đã cùng với một số đạo sĩ đến hoàng cung xin yết kiến Thái Tử và xem tướng. Đức Vua cha cực kỳ hoan hỉ. Ngài Asita đang ngồi trên ghế, khi Đức Vua bồng thái tử ra. Ngài nhìn chăm chú rồi bật khóc xúc động rồi quỳ xuống đảnh lễ Thái Tử. Nhà Tiên Tri nói rằng: “ Kính thưa Đại Vương, Thái Tử có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của một bậc đại nhân. Nếu Ngài làm vua sẽ là Vua của những vị Vua ( Chuyển Luân Thánh Vương ) thống lĩnh cả thiên hạ bằng uy lực của mình, không dùng đến gươm đao, quyền uy không ai sánh bằng. Nếu làm Đạo Sĩ sẽ trở thành Bậc Thánh Nhân vĩ đại chưa từng có cất lên Chánh Pháp cứu khổ cho muôn loài, khai sáng ra chân lý cho chúng sinh. Và thần e rằng, Ngài sẽ đi tu và trở thành Thánh nhân. Thần khóc vì tuổi đã quá già yếu, không sống đến lúc mà Thái Tử trưởng thành để được Ngài chỉ dạy…” Sưu tầm
  • Flag Counter

Popular Posts

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Total Pageviews